Sau Cách Mạng Tháng Tám, lực lượng Thanh Niên Tiền Phong của Phạm Ngọc Thạch (có vũ trang) bị giải giáp. Cùng với Thanh Niên Niền Tuyến của Phan Anh ở ngoài bắc, Thanh Niên Tiền Phong ở trong Nam rất mạnh. Trong ảnh là lực lược TNTP năm 1945. Họ sử dụng lối chào Olympic Salute, vốn khá phổ biến ở thế giới trước năm 1942, và vẫn còn được sử dụng ở Đông Dương thời Vichy. Bởi vậy kiểu chào này gây nhầm lẫn lực lượng của Phạm Ngọc Thạch có xu hướng Phát Xít. Ngay cả Nolde, mật thám Phòng Nhì, cũng cho như vậy (lúc này Nhật cai trị Đông Dương).
I. OSS Hoa Kỳ, quân Đồng Minh và múi giờ Hà Nội
Là con một gia đình dòng dõi ở Chicago, Albert Peter Dewey vào học đại học Yale, tốt nghiệp, đi làm phóng viên thường trú ở Paris cho Chicago Daily News và thực hiện các nhiệm vụ ngầm cho Rockefeller. Thế chiến 2 nổ ra, Dewey đăng lính và cuối cùng gia nhập OSS (cơ quan tiền thân của CIA). Đầu tháng 9 năm 1945, sau khi Nhật đầu hàng Đồng Minh (15 tháng 8), Dewey được cử đến Sài Gòn, đứng đầu một toán OSS có 7 thành viên, để đại diện cho quyền lợi Hoa Kỳ. Ở thời điểm này Hoa Kỳ chưa có cơ quan ngoại giao trên đất Đông Dương thuộc Pháp.
Khoảng nửa năm trước khi nhóm OSS của Dewey đến Sài Gòn, quân Nhật bất ngờ đảo chính Pháp ở Đông Dương (tháng 3), bắt giữ tù binh (POW), trong đó hơn 200 người Mỹ. Khi Dewey tới Sài Gòn thì Thế chiến 2 đã kết thúc, Nhật đã đầu hàng quân Đồng Minh, ở Hà Nội Việt Minh đã cướp được chính quyền, và đang được phe Đồng Minh (Mỹ, Trung hoa dân quốc của Tưởng Giới Thạch) yểm trợ vì có công chống Nhật.
Trước nhóm của Dewey, vào tháng 7 năm 1945, một nhóm OSS khác, toán Con Nai, đi vào vùng rừng núi phía bắc đã huấn luyện khoảng 200 người cho các nhóm vũ trang của Chu Văn Tấn và Võ Nguyên Giáp. Một trong số họ sau này rất nổi tiếng nhờ tài bắn súng là Tạ Đình Đề. Những người được tình báo Mỹ đào tạo này đã rất có ích cho Việt Minh khi họ cướp chính quyền từ tay Nhật. Toán OSS Con Nai cũng cứu Hồ Chí Minh mà họ đăt biệt danh là Lucius khỏi cơn sốt rét ác tính. Toán Con Nai còn tham gia hội nghị Tân Trào tổ chức ngày 16 tháng 8, và họ đã được Việt Minh sử dụng như “hàng trưng bày tủ kính” để tỏ ra có sự ủng hộ của Hoa Kỳ.
Chiều ngày 16 tháng 8, quân đội của Việt Minh xuất trận. Trận đánh đầu tiên của Võ Nguyên Giáp là đánh với bảo an và lính Nhật để giải phóng thị xã Thái Nguyên ngày 20 tháng 8. Trung đội đánh Thái Nguyên được Hồ Chí Minh đặt tên là trung đội Việt – Mỹ do có sự tham gia chỉ huy của Allison B. Thomas (OSS Con Nai).
Trước đó một ngày, ở Hà Nội cách mạng đã thành công khi không mặt lược lượng của Võ Nguyên Giáp. Ngay cả lãnh đạo mặt trận Việt Minh ở Hà Nội là Vũ Oanh cũng đang ở Tân Trào để họp. Khi Vũ Oanh trở về Hà Nội thì cách mạng đã thành công. Đơn vị làm cách mạng 19 tháng 8 ở Hà Nội là Đoàn thanh niên cứu quốc thành Hoàng Diệu, một đơn vị mà tên tuổi và chiến công của họ rất nhanh chóng bị xóa khỏi sử liệu và chỉ còn mập mờ với tên gọi Đoàn chiến sỹ Việt Minh thành Hoàng Diệu.
Ở Thái Nguyên, Trường Chinh đọc báo Đông Pháp số ra ngày 20 tháng 8, biết tin ở Hà Nội cách mạng đã thành công, bèn bỏ đánh nhau với Nhật mà kéo nhau về Hà Nội đêm 21. Phạm Văn Đồng được phân công ở lại căn cứ địa, Võ Nguyên Giáp đi cùng Trường Chinh, Vũ Đình Huỳnh về Hà Nội. Đến cầu Đuống, Giáp và Trinh ở lại, Huỳnh đạp xe vào Hà Nội trước, gặp Nghiêm Tử Trình mới biết Cách Mạng đã thành công, cướp được chính quyền. Sau đó từ Hà Nội, Võ Nguyên Giáp cho người lộn ngược lên núi đón Hồ Chính Minh và đưa về Phú Thượng. Tới Phú Thượng ngày 25 tháng 8. Đoạn này lát sẽ nói tiếp.
Từ ngày 9 đến ngày 12 tháng 3 năm 1945, chiến dịch Meigo (Minh Nguyệt) của Nhật đảo chính Pháp ngay trước khi quân đội Pháp tổ chức trận càn lớn để tiêu diệt triệt để nhóm phiến quân ở vùng rừng núi phía bắc. Vô tình người Nhật đã cứu được nhóm phiến quân này. Đó chính là lực lượng Việt Minh lúc này vẫn còn ngô nghê và bé nhỏ. Các nhân viên OSS Con Nai huấn luyện cho lực lượng bán vũ trang sơ khai của Việt Minh. Và một vài người thuộc nhóm tuyên truyền có vũ trang này lẩn xuống chi bộ Hà Nội, ngay lần đầu ra tay, bằng tuyên truyền và súng để đe dọa, đã dập tắt cuộc mít-tinh ủng hộ chính quyền Trần Trọng Kim ở Hà Nội vào ngày 17 tháng 8 năm 1945. Hai ngày sau họ cướp được chính quyền ở Hà Nội. Từ rừng núi đi về Hà Nội vào những ngày Cách Mạng Tháng 8 cùng với Việt Minh có cả toán Con Nai của tình báo Mỹ. Những người lãnh đạo Việt Minh ấy, sau này tiến hành một cuộc chiến tranh dai dẳng đẩy Mỹ ra khỏi Đông Dương. Tất cả những sự tình cờ này, là do lịch sử nghịch ngợm mà cố tình sắp đặt. Thậm chí, nếu tin vào các hồi ký của sĩ quan OSS, thì thậm chí chính OSS can thiệp với chính quyền Tưởng Giới Thạch để thả Hồ Chí Minh bị Trương Phát Khuê cầm tù (1943). Nếu đúng vậy thì lịch sử nghịch đến tận cùng của vạn sự.
Chưa hết, nhóm OSS cao cấp nhất, do Archimedes Patti chỉ huy, sau 19/8 đã đi thẳng từ hành dinh OSS ở Côn Minh tới Hà Nội bằng máy bay, mang theo cả những người Pháp “kháng chiến” chống Nhật vốn chạy trốn qua biên giới Việt Hoa sau khi Nhật đảo chính. Trong những người Pháp ấy có đại diện Pháp Jean Sainteny. Còn sĩ quan OSS đi cùng Patti nhưng nhảy dù xuống trước để thám sát, chính là người Mỹ gốc Pháp tên là Lou Conein, một người sau này là thuộc cấp của Edward Lansdale và là bạn của Phạm Xuân Ẩn. Lou Conein là người đưa tiền cho tướng Trần Văn Đôn để giúp đỡ phe đảo chính Ngô Đình Diệm sau này. Còn Patti đã giúp đỡ cho việc soạn thảo bản Tuyên ngôn độc lập cũng như “thay mặt” Hoa Kỳ tham dự lễ Độc lập đầu tiên. Patti cũng thăm dự các cuộc gặp gỡ của Lư Hán với Hồ Chí Minh.
Ở Sài Gòn, nhóm của Dewey làm việc với Việt Minh để bảo vệ quyền lợi Hoa Kỳ, cụ thể là khoảng hơn 200 tù nhân POW bị Nhật giam giữ gần Sài Gòn. Chỉ mấy tuần sau sau tình hình thay đổi, quân đội Anh (20th Indian Division của Douglas David Gracey) vào giải giáp Nhật. Trước khi qua đời vào tháng 4 năm 1945, tổng thống Roosevelt của Mỹ cho rằng thuộc địa của Anh và Pháp đang bị Nhật chiếm đóng cần giữ nguyên hiện trạng và đặt dưới sự kiểm soát quốc tế. Anh và Pháp tất nhiên không nghĩ như vậy. Pháp ngoan cố tìm cách giữ lại Indochina thuộc Pháp còn người Anh khuyến khích việc này. Khi vào Nam Bộ giải giáp quân Nhật họ đã thả tù binh Pháp ra, tái vũ trang cho họ để chống lại người Việt nói chung và Việt Minh nói riêng lúc này đã hiện rõ là cộng sản. Tướng Gracey, theo sách của Stanley Karnow, còn cấm tụ tập, cấm báo chí của người Việt, nhưng cho phép báo chí và đài phát thanh của Pháp hoạt động.
Ở Hà Nội, quân đội của chính quyền Tưởng Giới Thạch do Lư Hán và Tiêu Văn chỉ huy tiến vào miền bắc giải giáp Nhật nhưng họ đã không động chạm đến Chính quyền lâm thời và các ủy ban hành chính của Việt Minh. Tất cả những nỗ lực của Lư Hán và Tiêu Văn chỉ là tranh thủ ăn tiền và cướp bóc, đồng thời dựng các băng nhóm thân Tưởng (Quốc Dân Đảng, Đại Việt) của Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam. Đây là những nhân vật quen thuộc của Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội do tướng của Trung hoa dân quốc là Trương Phát Khuê dựng lên ở Liễu Châu năm 1942. Một trong những hành động đầu tiên khi Lư Hán đến Hà Nội là bắt chính phủ Việt Minh đổi múi giờ, vốn chính thức đang phải theo múi giờ của đế quốc Nhật là GMT+9, về múi giờ GMT+7.
Ở Sài Gòn, quân đội Anh của tướng Gracey không chỉ thả người Pháp ra và tái vũ trang cho họ, mà còn tấn công trụ sở ủy ban chính quyền lâm thời của Trần Văn Giàu. Sài Gòn rơi vào tình trạng bạo lực khi người Pháp, bao gồm cả thường dân, đánh nhau với Việt Minh và Hòa Hả0. Dewey phản đối các quyết định của Gracey và quan hệ giữa họ xấu đi. Xe jeep của Dewey bị Gracey cấm treo cờ Mỹ.
Hơn hai mươi ngày sau khi đặt chân đến Sài Gòn, Dewey lại phải ra đi. Theo Archimedes Patti trong Why Vietnam, trước đó người sĩ quan trẻ này đã bí mật gặp Trần Văn Giàu, Dương Bạch Mai và Phạm Ngọc Thạch. Cũng theo Patti, báo cáo cuối cùng của Dewey gửi từ Sài Gòn nhận định “người Pháp sẽ cáo chung ở đây, còn người Mỹ chúng ta sẽ phải rút khỏi Đông Nam Á”.
Từ Continental, Dewey lái xe ra sân bay, đón hụt máy bay, lái xe trở về căn cứ của OSS đóng tại biệt thự Ferrier gần ngã ba Chú Ía. Trên đường về bị lực lượng Thanh Niên Tiền Phong của Phạm Ngọc Thạch phục kích bắn chết và lấy mất xác. Lúc đó là ngày 26 tháng 9 năm 1945, ba tuần sau khi chính phủ Việt Minh tuyên bố Độc Lập ở Hà Nội. Sau này lý do Trần Văn Giàu đưa ra là nhầm Dewey là người Pháp nên bắn chết.Nhưng có thể đây là việc mà nhóm Phạm Ngọc Thạch, sau cuộc họp chỉnh lý ngày 23 ở Cây Mai do Hoàng Quốc Việt từ Bắc vào chủ trì, buộc phải làm để giữ cái đầu. Nhóm Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Trấn (vốn là phe Hà Huy Tập) lãnh đạo quốc gia tự vệ cuộc (công an) cũng buộc phải ra tay tàn sát nhóm Đệ Tứ để củng cố vị trí của mình. Trần Văn Giàu nhận công tổ chức cách mạng tháng 8 ở Sài Gòn, từ Nguyễn Văn Trấn, về tay mình. Một trật tự mới đã xuất hiện. Cuối năm 1945 Nguyễn Bình vào nam, miếng ghép cuối cùng đã được khớp vào nơi còn thiếu.
Ở thời điểm này không ai ngờ được rằng sẽ có hai cuộc chiến lớn sẽ xảy ra ở mảnh đất Đông Dương: chiến tranh Pháp- Việt và chiến tranh Mỹ – Việt. Hai cuộc chiến được gọi lần lượt là Chiến tranh Đông Dương lần 1, và Chiến tranh Đông Dương lần 2. Năm 1950, gần 5 năm sau cái chết của Dewey, Hoa Kỳ mới mở cơ quan ngoại giao của mình ở Sài Gòn. Đó là lúc Anh và Mỹ công nhận Quốc Gia Việt Nam (State of Vietnam) của Quốc trưởng Bảo Đại, như một đối trọng với việc Liên Xô và Trung Quốc công nhận chính phủ Hồ Chí Minh ở vùng rừng núi phía bắc. Cùng một lúc, ở Đông Dương, tự nhiên có hai chính phủ cùng đòi hỏi sư hiện diện hợp pháp của mình trên toàn cõi Việt Nam. Một cõi mà phải đến tận năm 1975 mới liền một dải.
II. Năm 1945, bàn giao Bắc Bộ Phủ, ngày Độc Lập, và những chuyện kéo dài đến 1954.
Tính chính danh không phải là trò chơi quyền lực xa lạ gì với mảnh đất này. Tây Sơn khởi nghĩa lúc đầu chỉ là hùa theo tính chính danh của hoàng tôn nhà Nguyễn là Nguyễn Phúc Dương để chống lại bọn quan tham nhũng lộng hành bóc lột dân là Trương Phúc Loan. Rồi Tây Sơn đánh nhau thua quân Trịnh, đầu hàng, rồi hùa theo quân Trịnh để lấy chính danh nhà Lê để đánh nhà Nguyễn tan tác khỏi đất miền nam. Đánh nhà Nguyễn xong, để Nguyễn Nhạc lên làm vua miền trong để lấy chính danh, Nguyễn Huệ bị ép ra mảnh đất hẹp miền trung, một lần nữa phải dương tính chính danh phù Lê để ra bắc làm thịt nhà Trịnh. Nhà Trịnh lúc này tiếm quyền vua Lê đã quá lâu, mà bóc lột nhân dân cũng rất quá đà. Diệt xong nhà Trịnh, Nguyễn Huệ cướp bóc Bắc Hà, rút về miền trung để lại khoảng trống mênh mông quyền lực và xơ xác vật chất. Lê Chiêu Thống dại dột qua Tàu rước quân ngoại xâm về, để lại Thăng Long khoảng trống chính danh. Nguyễn Huệ nhanh chóng lấp mình vào chỗ chính danh ấy, lên ngôi Hoàng Đế, sử dụng địa phương quân đánh chặn quân Thanh từ biên giới về đến đất Kinh Kỳ. Theo Nguyễn Duy Chính, từ miền trung Hoàng Đế Quang Trung (đã bí mât lên ngôi) cử một cánh quân đi vòng qua Ai Lao (quân bộ) và một cánh quân đi đường biển đánh ra bắc. Hai con đường này, quân Chiêm Thành đã từng dùng để đánh Thăng Long. Nguyễn Huệ cầm một đạo quân đi nhanh ra Nghệ An, huy động quân đội và dân công tại chỗ, một bí quyết quân sự mà chỉ có Việt Minh đánh Điện Biên sau này mới làm nổi, rồi tiến phăng phăng ra bắc. Chiến thắng Kỷ Dậu đưa Quang Trung lên hàng siêu sao về quân sự, thống nhất Trung – Bắc, đồng thời để lại bài học cho quân đội Việt Nam sử dụng địa phương quân đánh 60 vạn quân Đặng Tiểu Bình năm 1979. Chỉ có một điểm khác. Quân Quang Trung truy sát tàn nhẫn quân Thanh khi bọn này rút chạy, khiến cho nhiều năm sau chúng còn khiếp sợ không dám khiêu khích. Quân Việt Nam năm 1979 không truy kích mà tuyên bố “thiện chí hòa bình” cho Trung Quốc rút quân (từ 7 đến 18 tháng 3 năm 1979) khiến chúng khinh nhờn mà kéo dài xung đột biên giới đến 1988 và đánh Trường Sa 1988.
Thế nhưng mải mê chinh chiến trên đất bắc mà Quang Trung lơ là để hổng phía nam khiến Nguyễn Ánh có cơ mà nổi lên như bão. Nguyễn Ánh khi trở lại, lại mượn tạm tính chính danh của nhà Lê để bày trò Phục Quốc, bằng cách sử dụng niên hiệu Cảnh Hưng đồng thời sử dụng tâm lý chiến để thu phục lòng dân Bắc Hà (“lạy trời cho cả gió nồm, cho thuyền chúa Nguyễn giong buồm thẳng ra”).
Tính chính danh của nhà Nguyễn Gia Long được triều đình nhà Thanh công nhận và Việt Nam trở thành chư hầu của Trung Hoa. Sau này quan hệ “chư hầu” (vương quốc vệ tinh chịu ảnh hưởng chính trị của nhà Trung hoa) chấm dứt và trở thành quan hệ “bảo hộ” của Pháp nhờ ba sự kiện: quân Pháp đánh quân Thanh ra khỏi Lạng Sơn, hiệp ước Pháp-Thanh và hiệp ước Patrenote. Cũng nhờ hiệp ước Patrenote mà sau này ký được Hiệp ước sơ bộ mới đưa Tàu Tưởng ra khỏi phía bắc. Biên giới trên bộ Việt-Trung cũng dựa nhiều vào hiệp ước Pháp-Thanh
Bài học 1. Việt Minh đã học bài học thứ nhất. Bài học nhảy vào chỗ trống quyền lực ở miền bắc xác xơ vì đói phá kho thóc Nhật và cướp chính quyền, họ đã làm hoàn hảo. Theo Thomas Bass thì Cao Giao, một người bạn của Phạm Xuân Ẩn, là người đã báo tin cho Mười Hương về việc Nhật đảo chính Pháp (ngày 9 tháng 3 năm 1945) để họ chuẩn bị lực lượng. Chỉ 3 ngày sau, ngày 12, TW Đảng đã ra chỉ thị quan trọng “Nhật Pháp đánh nhau và hành động của chúng ta”.
Ở Hà nội, khi Nhật đầu hàng Đồng Minh, rất nhanh về mặt thời cơ, Trương Tử Anh của đảng Đại Việt, vốn rất mạnh trong giới đại học và trí thức hồi đó, lại có thành tích yểm trợ Trần Trọng Kim, đã toan cướp chính quyền ở Tonkin (lúc này Đông Dương vẫn chia làm ba vùng tách biệt) nhân cuộc mít tinh do Tổng Đoàn Công Chức tổ chức để ủng hộ chính phủ (lâm thời lần 2) của Trần Trọng Kim ngày 17 tháng 8 ở Hà Nội. Theo lệnh của Trương Tử Anh, sư đoàn Sao Trắng của Vũ Kim Thành kéo về Hà Nội kết hợp lực lượng sĩ quan trường võ bị Lạc Triệu để chiếm Hà Nội nhưng bất thành. Sau này chính Vũ Kim Thành đã tham gia tổ chức ám sát Nguyễn Bình nhưng ông tướng này chỉ bị thương nặng. Ở thời điểm bước ngoặt, Nhật thua trận, chính phủ Trần Trọng Kim bất ngờ bơ vơ, Bảo Đại chỉ đạo cho Trần Trọng Kim tổ chức chính phủ lâm thời, đồng ý cho Nguyễn Xuân Chữ và Trần Văn Lai tổ chức Ủy ban cứu quốc và cho ra mắt Ủy ban giám đốc chính trị miền bắc ngày 16 tháng 8 rồi Tổng đoàn công chức tổ chức cuộc mit tinh 17 tháng 8 nói trên ở Hà Nội. Sự kiện lơ ngơ này của chính phủ Trần Trọng Kim vô tình đưa chìa khóa cho chính quyền của Việt Minh đang nằm chờ ở Việt Bắc.
Ngày 17-8 Đoàn thanh niên cứu quốc thành Hoàng Diệu đã nhanh chóng biến vụ cướp chính quyền của Trương Tử Anh thành của mình, để hai ngày sau họ có cuộc cướp chính quyền khác hiệu quả hơn, nay được biết với tên gọi Cách Mạng Tháng Tám (ngày 19 tháng 8).
Do chuẩn bị tốt hơn, những người thuộc xứ ủy của Trường Chinh, tức thành ủy Hà Nội (Nguyễn Quyết, Nguyễn Khang, Văn Tiến Dũng) đã chủ động họp Ủy ban quân sự cách mạng (tức Ủy ban khởi nghĩa) ở nhà bà Hai Nhã (thôn Dịch Vọng Tiền) tối ngày 17 tháng 8 và quyết định tự khởi nghĩa không cần lệnh Xứ ủy.
Vai trò của OSS được tận dụng tối đa, khi phái đoàn của Thành Ủy Hà Nội (Nguyễn Khang, Trần Đình Long) đi gặp Khâm Sai Phan Kế Toại đã cương quyết không tham gia chính phủ lâm thời của Đế Quốc Việt Nam với lập luận: “chỉ có Việt Minh có danh nghĩa và lực lượng giao dịch với Đồng Minh”. Trần Đình Long sau cách mạng bị Quốc Dân Đảng bắt cóc đưa đi mất tích.
Ngày 19 tháng 8 Nguyễn Khang và Trần Tử Bình chiếm Phủ khâm sai, rồi Trần Tử Bình cướp chính quyền bằng điện thoại: gọi điện cho chính quyền địa phương Bắc Bộ yêu cầu bàn giao chính quyền cho Việt Minh.
Cùng thời gian này, Nguyễn Quyết cùng Đoàn thanh niên cứu quốc thành Hoàng Diệu chiếm trại Bảo an binh ở Hàng Bài, trong lúc Lê Trọng Nghĩa vào Hà Đông để thuyết phục Bảo an binh đóng ở Cầu Đơ không nổ súng.
19/8 là cách mạng tháng Tám, và cũng là ngày truyền thống ngành công an.
Lý do là lực lượng bảo vệ trị an xã hội lúc đó (cảnh sát) là Bảo An Binh (người Việt) đóng ở 40 Hàng Bài và mật vụ Kempeitai (hiến binh người Nhật) đã chuyển giao công việc cảnh sát ở Hà Nội cho Đội Hoàng Diệu. (Việt Minh họp hội nghị Tân Trào ngày 16/8, ngày 20/8 họ vẫn ở Thái Nguyên). Một trong những người nhận bàn giao là Chu Đình Xương, ông này là người cầm ô che cho HCM ở Ba Đình ngày 2/9. Sau này lực lượng Bảo An trở thành công an.
Do từ cuối thế kỷ 19 thành phố Hà Nội đã trở thành nhượng địa (thuộc Pháp), nên tỉnh lỵ của toàn tỉnh Hà Nội (nơi chính quyền An Nam và các cơ quan ngoại giao của Pháp đóng) đã phải rời về tỉnh lỵ mới là tỉnh lỵ Cầu Đơ (tỉnh Cầu Đơ), sau đổi tên là Hà Đông của tỉnh Hà Đông. (Tỉnh lỵ Hà Đông, sau là thị xã Hà Đông, nay là quận Hà Đông). Để phục vụ việc này Pháp đã xây một đô thị nhỏ ở đây (từ 1896-1904), kèm đường sắt chạy Hà Nội Cầu Đơ hoàn thành năm 1911 (tức là đường tàu điện Hà Nội Hà Đông, còn hoạt động đến sau thời VN bỏ bao cấp). (Họ làm đường xe điện rất nhanh vì chỉ dài tầm 10km. Dường sắt bắc nam, dài dọc theo đất nước như còn đến hiện nay, họ làm cũng chỉ có vài năm là xong.). Các cơ sở do Pháp xây ở Hà Đông đến nay vẫn còn: nhà thờ, tòa công sứ, dinh tổng đốc, chợ.
Bảo An Binh ở Cầu Đơ khác Hà Nội nên họ không bàn giao mà vào ngày 19/8 họ còn nổ súng. Hôm sau, ngày 20, Lê Trọng Nghĩa vào đầu cầu Đơ (nay là cầu Hà Đông, tên cũ là cầu Trắng) gọi điện cho bảo an binh đóng bên kia cầu để gọi hàng. Lê Trọng Nghĩa sau là Cục trưởng cục quân báo.
Ngày hôm sau chính quyền cách mạng lâm thời Bắc bộ (Ủy ban nhân dân cách mạng Bắc bộ) được thành lập và đóng ở Phủ khâm sai, lúc này đổi tên thành Bắc bộ phủ. Nguyễn Khang làm chủ tịch ủy ban.
Thế nhưng thành tích tổng khởi nghĩa được ghi nhận cho Xứ ủy Bắc Kỳ (Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt). Ngày 19 tháng 8, Nguyễn Xuân Chữ, chủ tịch Ủy ban giám đốc chính trị miền bắc, bàn giao Bắc Bộ Phủ cho Việt Minh. Ủy ban giám đốc chính trị miền bắc có chủ tịch là Nguyễn Xuân Chữ, các thành viên có Trần Văn Lai, Đặng Thai Mai, Hoàng Đạo (Nguyễn Tường Long). Hoàng Đạo là em, và là bộ óc đứng sau các hoạt động chính trị của Nhất Linh, rất tiếc chết đột tử trên tàu hỏa vài năm sau đó. Bác sĩ Nguyễn Xuân Chữ, tháng 9 năm 1944 tham gia Ủy ban kiến quốc (nhóm trung thành với Cường Để) ở Sài Gòn. Ngô Đình Diệm đứng đầu ủy ban này, còn Nguyễn Xuân Chữ làm phó.
Sau khi cướp chính quyền, chỉ trong vài ngày, Việt Minh dẹp sạch các phần tử có tiềm năng cạnh tranh ở khu vực Hà Nội, rồi Võ Nguyên Giáp cho người lên chiến khu rước Hồ Chí Minh về làm lễ mùng 2-9 trong thanh bình.Mẹ đẻ của Louis Marty, Phan Thanh Hòa chủ tịch hội sinh viên Đại học Đông Dương, và ông giáo Tôn Thất Bình được cho là bị sát hại trong đợt này (Tôn Thất Bình là con rể Phạm Quỳnh và là hiệu trưởng tư thục Thăng Long nơi Đặng Thái Mai và Võ Nguyên Giáp là giáo viên). Trước khi vào nội thành, Hồ Chí Minh gặp Võ Nguyên Giáp và Trường Chinh ở Phú Thượng và hỏi: Mình làm chủ tịch à? Đây là lần đầu tiên trong đời Hồ Chí Minh, lúc này khoảng 56 tuổi, đặt chân đến Hà Nội. Đây cũng là lần thứ 4 Võ Nguyên Giáp đi đón Hồ Chí Minh. Ở thời điểm bước ngoặt này, Hồ Chí Minh nổi danh nhiều hơn với tên gọi ông già Tân Trào, sau được biết chính là Nguyễn Ái Quốc. Một trong những hoạt động của Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp sau khi có chính quyền là đến gặp sinh viên của Đông Dương Học Xá (Université indochinoise, nay là khoa Hóa và Đại học Dược Hà Nôi) và đến nói chuyện với sinh viên trường này ở Cư xá của họ (Cité universitaire de Hanoi, nay là khoa sau đại học, trong Đại học bách khoa Hà Nội).
Theo hồi ký Bùi Diễm (đảng viên Đại Việt, hoạt động dưới quyền Trương Tử Anh, sau là đại sứ của Việt Nam Cộng Hòa ở Hoa Kỳ) và hồi ký Lê Giản (Giám đốc nha công an Việt Minh, nằm trong bộ nội vụ của bộ trưởng nội vụ Võ Nguyên Giáp) cho biết Trương Tử Anh bị bắt và xử chết sau đó nhiều tháng. Theo sách của Hoàng Văn Đào, có một nhân vật cộm cán của VNQDĐ qua làm cho công an Việt Minh nên bắt đảng viên nào của Quốc Dân Đảng là dính bóc đảng viên ấy. Cũng theo hồi ký Bùi Diễm, các cơ sở chính quyền Việt Minh được tổ chức đồng loạt khắp các vùng thôn quê vùng sâu vùng xa, và được tổ chức rất tốt và đặc biệt là rất tàn nhẫn. Theo hồi ký của Thụy Nga (người vợ miền nam của Lê Duẩn), đội Thanh Niên Tiền Phong do bác sỹ Phạm Ngọc Thạch làm thủ lĩnh đã tổ chức các hoạt động tảo thanh (tiễu trừ các đối lập chính trị) rất mạnh, dư âm còn lại rất lâu sau này trong tâm lý người dân. Bản thân Thụy Nga bị đội này bắt nhầm và suýt giết, may mà chỉ huy lúc đó là Phạm Hùng biết tin nên tha chết (Phạm Hùng kể lại với Thụy Nga: không thì chị đi mò tôm rồi).
Bài học 2. Nhưng Việt Minh không thực hiện được bài học thứ hai, dù đã nỗ lực hết mình. Sau cách mạng tháng tám chỉ hai năm, người Pháp đã dựng được Nam Kỳ Quốc (Quốc gia Đàng Trong/ State of Cochinchina/ Quốc Gia Việt Nam) với Nguyễn Văn Thinh làm president (thủ tướng). Và ngay cả khi đã thắng trận Điện Biên Phủ rồi ký hiệp định Geneva, thì họ đã để cho gần như một tay Edward Lansdale tổ chức cả chiến tranh tâm lý lẫn logistic cho cuộc Exodus vĩ đại đưa gần một triệu người “đi ngược gió nồm vào Nam”. Số dân bắc di cư vào nam trong đợt này tương đương 5% dân số miền bắc. Trong đó khoảng hơn 300 ngàn người đi bằng tàu của Hải Quân Hoa Kỳ (chiến dịch Operation Passage to Freedom – Sang Phía Tự do) và khoảng 200 trăm ngàn người đi bằng cầu hàng không được coi khổng lồ nhất thế giới lúc bấy giờ với 1200 km chiều dài, cứ 6 phút có một máy bay hạ cánh ở đầu Sài Gòn. Một hàng hàng không dân dụng tham gia cầu hàng không này lại là một hãng hàng không bí mật của tình báo Mỹ. Tên hãng lúc đầu là Civil Air Transport, sau đổi thành Air America. Air America đưa khoảng 20 ngàn người từ Bắc vào Nam, và chở vũ khí, điện đài và điệp viên từ Nam ra Bắc. Lúc Điện Biên Phủ khó khăn, chính phủ Mỹ yêu cầu OSS sử dụng CAT để không vận cho cứ điểm. Sau Geneva 1954, theo sách về CIA của Zalin Grant, nhóm của Lou Conein được Lansdale gửi ra Hà Nội thực hiện các hoạt động phá hoại cũng như giấu vũ khí và thuốc nổ dọc theo sông Hồng cho các hoạt động kháng chiến chống cộng những năm sau 1954. Ngày 29 tháng 4 năm 1975, chiếc trực thăng Huey bạc của Air America mà CIA sở hữu này, hạ cánh lên nóc tòa nhà 22 Gia Long, nơi tầng trên cùng là station của CIA Sài Gòn. Harage đã bay khoảng 4, 5 chuyến từ 22 Gia Long ra Tân Sơn Nhất, mỗi chuyến chở khoảng 15 người, trong đó có Trần Văn Đôn và Trần Kim Tuyến. Phạm Xuân Ẩn đã tạm biệt Trần Kim Tuyến sau khi cứu ông này ở cánh cổng 22 Gia Long. Bức ảnh chụp cảnh trực thăng di tản trên nóc tòa nhà CIA do Hubert Van Es (UP) chụp đã đi vào lịch sử và bị nhầm qua nóc tòa nhà sứ quán Hoa Kỳ.
Ở phía Nam, theo sách của Thomas Bass, sau hiệp định Geneva, Landsdale tổ chức huấn luyện biệt kích và thả từ biển (người nhái) đột nhập vào duyên hải Bắc Bộ, mang theo vũ khí và rất nhiều vàng. Người nhái vào đều bị phản gián Bắc Việt bắt sạch, nhưng Landsdale không biết mà vẫn tiếp tục gửi thêm các nhóm khác. Số phận các người nhái này vẫn là bí ẩn, chỉ biết họ còn sống đến sau 1975. Sau này người ta cho rằng Phạm Xuân Ẩn là người làm kế hoạch của Lansdale thất bại.
Việc tuyển dụng biệt kích mang qua Philippines huấn luyện, theo Zalin Grant, có sự tham gia của Conein. Cũng lúc này Landsdale ráo riết hoạt động ủng hộ Ngô Đình Diệm và nội các non nớt của ông này. Việc kéo các sĩ quan Hòa Hảo, Cao Đài, trong đó có Trình Minh Thế về phe Ngô Đình Diệm là có công sức vận động của Landsdale, một người không biết một ngôn ngữ nào ngoài tiếng Mỹ. Sau khi Lansdale rời Sài Gòn, ở Trường Võ bị Đà Lạt phái bộ quân sự Hoa Kỳ bắt tay vào huấn luyện quân đội quốc gia Việt Nam bắt đầu manh nha hình thành. Phái bộ quân sự Sài Gòn (Saigon Military Mission) chính là nhóm CIA đầu tiên do Lansdale lập nên và đặt tên, do Joe Redict, một nhân viên CIA đứng đầu.
III. Năm 1946
Rất nhanh sau ngày Độc Lập (mùng 2 tháng 9), sắc lệnh số 8 do Võ Nguyên Giáp ký ngày 5 tháng 9 năm 1945 đã đặt các đảng phái chống Việt Minh ra ngoài vòng pháp luật (Khoản thứ nhất : Nay giải tán “Đại Việt Quốc gia xã hội Đảng” và “Đại Việt Quốc dân Đảng”. Khoản thứ hai : Nếu hai Đảng ấy còn tụ họp và hoạt động thì những người can phạm sẽ phải đem ra Toà án chiểu luật nghiêm trị). Riêng Đại Việt mất khoảng hơn một vạn đảng viên ở các cơ sở Việt Trì và thượng lưu Sông Hồng trong đợt càn quét này. Trong lúc mải mê săn đuổi và triệt hạ các đảng phái này, Việt Minh quên béng Bảo Đại, lúc này đang làm cố vấn cho chính phủ Hồ Chí Minh với cái tên Vĩnh Thụy, lại cố ý cho ông này đi thoát qua Trung Quốc rồi bỏ rơi cựu hoàng này ở Côn Minh (16 tháng 3 năm 1946), bắt hụt Ngô Đình Nhu và thả Ngô Đình Diệm ra khỏi nhà ngục. Đây cũng là năm mà Bộ Nội Vụ của Bộ trưởng Võ Nguyên Giáp giải tán toàn bộ hệ thống hành chính nhà nước đậm chất Pháp (chứ không phải chất phong kiến Minh Mạng) từ cấp tỉnh huyện trở xuống và thay bằng các ủy ban nhân dân.
Bảo Đại, đi Trung Quốc vừa tự nguyện vừa bắt buộc. Chỉ 10 ngày trước khi đi, Việt Minh ký hiệp ước để “quay lại” với Pháp, một điều trái với ý quốc dân và tự mâu thuẫn với việc họ phế chính phủ Bảo Đại – Trần Trọng Kim. Bị bỏ rơi lại Côn Minh, Bảo Đại loay hoay vài tháng với Quốc dân đảng Trung Hoa rồi bỏ đi Hong Kong vào Tháng 9. Trong thời gian ở Trung Quốc, dù rất nghèo Bảo Đại vẫn tìm cách bảo trợ cho triển lãm tranh của Nguyễn Tường Lân. Họa sỹ tài năng này chỉ một thời gian ngắn sau đó bị Việt Minh bắt và chết trong tù. Khi Bảo Đại đi ra khỏi Việt Nam sau khi ký hiệp ước sơ bộ mùng 6 tháng 3, không ai ngờ được rằng sẽ có chiến tranh Pháp Việt và sau đó là việc Pháp ký Hiệp ước Élyseé với Bảo Đại, thành lập Quốc Gia Viêt Namtạo tiền đề cho nhà nước Việt Nam Cộng Hòa sau này. Có một chi tiết nhỏ, lúc Bảo Đại ở Trung Quốc, chính phủ Nhật đang ở đáy của thất bại, vẫn gửi hiến binh giả làm người Việt qua tìm Bảo Đại và bảo vệ vị cựu hoàng này. Người Nhật có cái gì đó rất kì quặc, nhưng là sự kì quặc của chung thủy, tận tụy và phi thời gian.
Ngô Đình Diệm, lúc đó bị Việt Minh bắt giam trên rừng, được đưa về Hà Nội giam chỗ bây giờ là công an Hoàn Kiếm. Theo hồi ký Lê Giản, chính Lê Giản đưa Hồ Chí Minh vào nhà lao để gặp Ngô Đình Diệm, Lê Giản đứng gác ở ngoài, sau đó Ngô Đình Diệm được thả. Gần 5 năm sau khi được thả, Ngô Đình Diệm qua Nhật gặp Cường Để và tìm kiếm hỗ trợ từ nước Nhật nhưng thất bại. Rồi qua Bỉ, qua Pháp, cũng thất bại. Rồi qua Mỹ, cũng chưa ăn thua. Cho đến lúc Ngô Đình Nhu tìm cách để Bảo Đại bổ nhiệm Ngô Đình Diệm làm thủ tướng (thực chất là đứng đầu chính quyền miền nam) và Diệm về Sài Gòn nhận chức chỉ hai tuần trước khi Geneva được ký, và đất nước bị chia làm hai nửa không bằng nhau. Chuyện này cuối bài kể tiếp. Còn bây giờ lần một chút về nắm bối cảnh quá khứ.
IV. Những chớp ảnh về quá khứ: từ 1920 rồi lại đến 1945.
Các thế hệ thanh niên tân học, sinh ra và lớn lên ở một nước Pháp viễn đông (Cochinchina) hay một vùng được nước mẹ Đại Pháp bảo hộ (Annam, Tonkin) đã học được từ phương tây tinh thần tự do và mong ước dân tộc độc lập. Tinh thần ấy đi sâu vào các hoạt động xã hội, chính trị, vào báo chí, văn nghệ, vào các chính trị gia, các đảng phái. Độc lập với họ không cần là self-government hay autonomy về mặt hình thức, mà phải ở nội dung: thống nhất Trung Nam Bắc, tự chủ về kinh tế, tiền tệ, ngoại giao và quân sự. Khởi nghĩa Yên Bái và hoạt động của Nguyễn An Ninh là tiêu biểu của thanh niên thời kỳ này.
Chính quyền thuộc địa của Pasquier nhanh chóng phản ứng với xu thế này. Họ lập tức cổ võ truyền thống dân tộc, giá trị cổ điển của nước Annam, và tái lập hình ảnh và vị thế của triều đình Huế. Nhưng ngai vàng lại bất ngờ trống vắng khi vị vua thân Pháp là Khải Định lăn ra chết. Chính quyền thực của Huế, không nằm trong tay vua, mà nằm trong tay các quan lại. Họ bắt đầu chống Pháp theo kiểu của họ, bằng cách đòi hỏi sử dụng hiệp ước 1884. Để làm điều này, quan đại thần Nguyễn Hữu Bài yêu cầu Pháp mang hoàng tử trẻ lúc này đang học ở Pháp, là Bảo Đại, trở về. Một vị quan – trí thức khác là Phạm Quỳnh lại đòi xây dựng quân chủ lập hiến. Trí thức tây học thậm chí còn cực đoan hơn, đòi dẹp luôn triều đình mà lập ra cái gì đó mới mẻ hơn hẳn. Kết quả là Bảo Đại quay về Huế năm 1932 khi 20 tuổi. Một năm sau, năm 1933, Nguyễn Hữu Bài, 70 tuổi, bị Pháp lật đổ và thay người thân Pháp là Phạm Quỳnh vào. Cũng trong năm này, Phạm Quỳnh cạnh tranh quan điểm khá mạnh với một quan khác và khiến viên quan này phải từ chức, rồi từ đó mang tư tưởng chống Pháp và có hào quang của một vị quan treo ấn từ quan. Đó là Ngô Đình Diệm. Năm này Ngô Đình Diệm 32 tuổi và là thượng thư trẻ nhất của triều đình. Sau khi từ quan, Ngô Đình Diệm tham gia các hoạt động ngầm chống Pháp của hoàng thân Cường Để, do đó bị mật thám Pháp theo dõi rất chặt chẽ .
Đầu những năm 1940, Nhật tiến vào Indochina với thỏa thuận ngoại giao mềm mại với chính quyền Vichy. Kiểm soát của chính quyền Pháp trở nên lỏng lẻo, mật thám Pháp sao nhãng việc giám sát. Hiến binh Nhật bắt đầu các hoạt động ngầm ủng hộ các tổ chức kháng Pháp. Không phải vô cớ mà năm 1945 ở Hà Nội người ta nói lá cở đỏ sao vàng (quốc kỳ hiện nay) là do người Nhật (hiến binh nhật) vẽ và đưa vào sử dụng ở Nam Kỳ (Mỹ Tho) năm 1940.
Ở phía nam họ hỗ trợ Cao Đài, Hòa Hảo. Năm 1942, lãnh đạo Hòa Hảo là Huỳnh Phú Sổ bị mật thám Pháp vây bắt. Hiến binh Nhật đã giải thoát rất ngoạn mục vị lãnh đạo tôn giáo 22 tuổi khỏi tay mật thám Pháp. Nhưng đến năm 1947, ở tuổi 27, Huỳnh Phú Sổ không thoát nổi tay Việt Minh. Cũng năm 1942, giáo chủ Phạm Công Tắc, lúc này 52 tuổi, bị Pháp bắt và đày qua Madagascar. Ở đó Phạm Công Tắc bị giam chung với tù cộng sản, trong đó có Lê Giản. Hồi ký Lê Giản có kể lại chuyện này.
Ở miền trung người Nhật ủng hộ các nhóm Đại Việt thân Nhật và chịu ảnh hưởng của Cường Để, trong đó có nhóm Ngô Đình Diệm. Năm 1944 khi mật thám Pháp vây bắt Ngô Đình Diệm, hiến binh Nhật đã giải cứu rồi mang Ngô Đình Diệm vào Sài Gòn để bảo vệ.
Ở miền bắc họ tuyên truyền và lấy tình cảm của trí thức trẻ và học sinh sinh viên trong Đông Dương Học Xá (Université indochinoise), đặc biệt là với nhóm Đại Việt của Trương Tử Anh và học giả Trần Trọng Kim. Tháng 7 năm 1944 thống sứ Bắc Kỳ ra lệnh bắt Trương Tử Anh, hiến binh Nhật can thiệp không cho bắt. Hồi ký của Bùi Diễm mô tả khá sống động hoạt động ngầm và nổi của người Nhật ở Hà Nội quãng thời gian này: rất tinh tế, tinh xảo và hiệu quả. Khi người Nhật đảo chính Pháp, họ tiếp quản căn cứ không quân rất quan trọng là Gia Lâm. Sau họ bàn giao lại cho Việt Minh khi phe này lên nắm chính quyền. Chiến tranh Việt – Pháp nổ ra, Pháp chiếm lại Gia Lâm. Sĩ quan Nhật huấn luyện đội cảm tử quân toàn dùng yêu tạ (ưu tạ, nghĩa là giang hồ thảo khấu) của Hoàng Minh Chính và Lê Minh Nghĩa các kỹ thuật thuốc nổ để đánh sân bay Gia Lâm giáp Tết 1947 (trận đánh đầu tiên của Việt Minh vào căn cứ quân sự hàng khủng của Pháp). Hỗ trợ huấn luyện quân sự của sĩ quan Nhật giúp Việt Minh (rất quan trọng) ở miền nam sẽ được kể tiếp ở phần “miền nam” phía dưới.
Lê Minh Nghĩa dù rất am hiểu Điện Biên Phủ nhưng bị điều đi khỏi địa bàn này trước chiến dịch Điện Biên. Ông viết một lá thư cho Giáp đề nghị không đánh A1 vì sẽ thương vong rất nhiều do hệ thống công sự kiên cố và hỏa lực mạnh. Lá thư bị lờ đi, với lý do “thất lạc”.Sau cả Hoàng Minh Chính và Lê Minh Nghĩa đều bi bắt trong vụ án chống Đảng nên trận Gia Lâm và trận Bắc Ninh bị xóa mờ khỏi quân sử.
Cùng lúc này ở bên kia biên giới, các hội kháng Pháp dưới sự bảo kê của cả quân đội Trung Hoa (quốc dân đảng của Tưởng Giới Thạch) và quân đội Trung Quốc (đảng cộng sản của Chu Ân Lai), xuất hiện chi chít: Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội xuất hiện sớm nhất, năm 1936, ở Nam Kinh (của Hồ Học Lãm, du học sinh Đông Du và sau này tham gia hội của Phan Bội Châu, và là sĩ quan cao cấp của quốc dân đảng), Việt Nam Giải Phóng Đồng Minh Hội (thỏa hiệp hợp tác giữa VNQDĐ và ĐCS Đông Dương), và Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội do chính tướng của Quốc dân đảng là Trương Phát Khuê tổ chức cho người Việt hải ngoại. Trong nhóm của Trương Phát Khuê có Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Hải Thần. Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội sau được dựng lại thànhViệt Minh.
“Liên Mỹ chống Hoa” và “Hoa quân nhập Việt”
Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội là một hội do Hồ Học Lãm và đồng sự, trong đó có Lê Thiết Hùng và Hoàng Văn Hoan, đứng ra viết hồ sơ để đăng ký thành lập (như một tổ chức cách mạng của Việt Nam ở hải ngoại) với chính quyền Trung ương Quốc Dân Đảng (chính quyền Trung Hoa phe Tưởng Giới Thạch) vào năm 1936. Tên viết tắt chính thức (trong hồ sơ đăng ký thành lập) là Việt Minh. Các nhóm Việt Kiều theo các đường lối chính trị khác nhau đều đứng chung dưới hội này với danh nghĩa các biện sự xứ. Ví dụ Nguyễn Hải Thần là biện sự xứ Quảng Đông, Hồ Học Lãm và Lê Thiết Hùng thì là biện sự xứ Nam Kinh, Hoàng Văn Hoan là biện sự xứ Xiêm. Cơ quan ngôn luận chính thức của Việt Minh là tờ Việt Thanh.
Năm 1940, để có vỏ bọc che cốt lõi cộng sản, Nguyễn Ái Quốc thành lập biện sự xứ hải ngoại của Việt Minh ở Quế Lâm, Hồ Học Lãm làm chủ nhiệm Phạm Văn Đồng làm phó. Đây mới thực sự là lực lượng Việt Minh về nước làm cách mạng tháng 8.
Trong thời gian này, Nguyễn Thế Nghiệp đấu đá nội bộ thua Nguyễn Thái Học nên chạy qua Côn Minh (1929), sau đó khởi nghĩa Yên Bái thất bại thì Vũ Hồng Khanh cũng qua nốt (1930). Hai nhóm này được mật thám Pháp ngầm giúp nên qua Tàu vẫn được chính quyền Côn Minh che chở (theo hiệp ước Pháp Thanh). Đến năm 1939 thì Nghiêm Kế Tổ, tốt nghiệp xong đặc vụ của Tưởng Giới Thạch cũng nhập bọn với Thế Nghiệp, Hồng Khanh để thành lập Việt Nam Quốc Dân Đảng ở Tàu. (Ở bên tàu, các đảng chính trị đều dùng tên có chữ Việt Nam thay cho chữ Đại Việt dùng cho tên đảng ở trong nước ).
Thời gian 1939-1940, các nhóm chính trị Việt Nam khác nhau đều dồn về Côn Minh. Hoàng Văn Hoan, Hồ Quang cũng tới Côn Minh. Hồ Quang đi thực tế cùng Phùng Chí Kiên ở đây. Đến tháng 5 năm 1940 Võ Nguyên Giáp và Phạm Văn Đồng cũng từ Việt Nam đến Côn Minh. Vũ Hồng Khanh sau một thời gian bị trục xuất đi Quảng Tây cũng về Côn Minh.
Từ năm 1940-1942 Quốc Dân Đảng của Tưởng Giới Thạch giao cho Trương Phát Khuê thành lập lực lượng phản đế của người Việt nhằm thực hiện kế hoạch Hoa Quân Nhập Việt. Lúc đầu Trương Phát Khuê định thành lập Việt Nam Phản Xâm Lược Đồng Minh, một dạng mặt trận có đủ các thành phần, lực lượng, kể cả Việt Minh. Căn cứ địa dự kiến đặt ở Việt Bắc, chính phủ lâm thời dự kiến có ban bệ đầy đủ với chủ tịch nước là Nguyễn Hải Thần. Đến 1942 do phe Việt Minh lộ bản chất cộng sản, Trương Phát Khuê loại hết, lấy Vũ Hồng Khanh và Nghiêm Kế Tổ làm lực lượng lõi, toan tính thành lập Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội (Việt Cách). Tháng 10 năm 1942 Việt Cách được thành lập. Nhưng không hoạt động được do phe Trương Bội Công, Nguyễn Hải Thần đấu đá với phe Vũ Hồng Khanh, Nghiêm Kế Tổ.
Lúc này, Việt Minh của Hồ Chí Minh đã về Cao Bằng và tìm mọi cách gây dựng phong trào cách mạng ở đây rồi liên thông qua Lạng Sơn nhưng không thành công. Nửa cuối năm 1942 Nguyễn Ái Quốc lúc này sử dụng căn cước Hồ Chí Minh tìm cách quay trở lại Trùng Khánh để gặp Tưởng Giới Thạch và Tống Khánh Linh với ý định xin vào phe đồng minh chống phát xít. Ai ngờ đang đi thì bị bắt ở Túc Vinh (tháng 8). Đến tháng 7 năm 1943 Hồ Chí Minh bị đưa về Liễu Châu thuộc Quân Khu 4 của lãnh chúa Trương Phát Khuê. Trương Phát Khuê giao cho Hầu Chí Minh thuyết phục Hồ Chí Minh tham gia Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội (Việt Cách). Cuối năm 1943 để cải cách Việt Cách vốn yếu ớt và nội bộ lủng củng, Trương Phát Khuê và Tiêu Văn nhảy vào nắm quyền trực tiếp. Đến cuối tháng 3 năm 1944 tổ chức đại hội ở Liễu Châu, Hồ Chí Minh và Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh) được bầu làm ủy viên trung ương. Tháng9 năm 1944, Hồ Chí Minh và các đồng chí được Trương Phát Khuê cấp kinh phí, vũ khí, cho đi khỏi Liễu Châu để về Việt Nam chống phát xít.
Do có hộ chiếu dài hạn do Trương Phát Khuê cấp cuối năm 1944 Hồ Chí Minh được Phùng Thế Tài tháp tùng đã dẫn được trung úy Shaw qua Côn Minh để “trả” lại cho quân đồng minh Hoa Kỳ, qua đó kết nối với các cơ quan tình báo Mỹ OWI, OSS và tướng Chennault.
Sau chiến dịch Meigo (Minh Nguyệt) Nhật thực hiện rất gọn gàng để đảo chính Pháp từ 9 đến 12 tháng 3 năm 1945, các lực lượng chính trị vốn bị Pháp đàn áp (trong đó đông nhất là Việt Minh) mạnh lên do bộ máy cảnh sát, mật thám và nhà tù của Pháp bị vô hiệu hóa. Quan trọng hơn, quân đồng minh ở Côn Minh, đặc biệt là phái bộ quân sự Hoa Kỳ thay đổi thái độ, quan tâm đến Việt Minh nhiều hơn.
Qua tháng 9, sau khi Nhât đầu hàng, quân Tưởng tiến vào miền bắc. Vì giúp Việt Cách nói chung và Hồ Chí Minh nói riêng nên Trương Phát Khuê mất tín nhiệm của Trùng Khánh (đầu não Trung Hoa chính quyền Tưởng). Hoa Quân Nhập Việt được giao cho Lư Hán và Tiêu Văn. Hà Ứng Khâm tổng tư lệnh lục quân Trung Hoa là người nắm toàn bộ chiến dịch này. Khi bốn tốp biệt kích gốc Việt của Tàu Tưởng được tung qua biên giới thì Hồ Chí Minh đã về Việt Bắc và đón được quân OSS ở đây. Vì việc này Hồ Chí Minh bị chính quyền Tưởng cho là “Liên Mỹ Chống Hoa” nên Hoa quân nhập Việt của Lư Hán vào Việt Nam đã có chủ trương “Diệt cộng cầm Hồ”.
Nguyễn Hải Thần đi theo cánh quân của Tiêu Văn từ Quảng Tây tới Lạng Sơn rất sớm (tháng 9 năm 1945) nên vừa đi vừa dựng lực lượng và tuyên truyền.
Vũ Hồng Khanh không được Lư Hán (đi từ Vân Nam tới Hà Nội bằng máy bay) tin cẩn nên phải đi đường bộ qua Lào Cai, tới Hà Nội vào tháng 10. Đến tháng 12 thành lập Mặt trận quốc dân đảng Việt Nam, có Trương Tử Anh làm chủ tịch, Vũ Hồng Khanh làm tổng bí thư, Nguyễn Tường Tam làm tổng thư ký. Trụ sở của mặt trận này và đài phát thanh của họ đặt ở Quan Thánh. Mặt trận sử dụng cờ Việt Cách.
Tiền thân của nhóm này là Đại việt quốc gia liên minh thành lập ngày 22 tháng 2 năm 1945. Đây là một tổ chức lâm thời liên kết các đảng phái Ðại Việt Quốc Xã, Ðại Việt Dân Chính, Ðại Việt Quốc Dân Ðảng, Việt Nam Quốc Dân Ðảng. Liên Minh ra mắt lúc 5pm ngày 11 tháng 3 ở Bờ Hồ (trong lúc Nhật đang đảo chính Pháp), tuyên bố cả thành phần ủy ban chính quyền lâm thời. Tám ngày sau, ngày 19 tháng 3 lại tự giải tán (có lẽ đã thấy chính phủ mới của Trần Trọng Kim). Đại Việt quốc gia liên minh có mời cho đủ mâm bát Nhượng Tống làm bí thư và Nguyễn Triệu Luật làm chính ủy. Thực chất ở thời điểm này Nhượng Tống và Nguyễn Triệu Luật vẫn bị Pháp quản thúc (ngày 19 Nhật mới đảo chính xong). Đây là lý do đến cái chết oan của Nhượng Tống (do công an Việt Minh thi hành án) năm 1949.
Một tháng trước khi Mặt trận quốc dân đảng Việt Nam được thành lập, tức tháng 11, Hồ Chí Minh để che mắt Tiêu Văn đã giải tán Đảng cộng sản Đông Dương (trá hình dưới tên Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương của Trường Chinh). Giải tán ngày 11 tháng 11 thì ngày 19 Tiêu Văn hòa giải Việt Minh và Việt Cách để thành lập chính phủ liên hiệp có chủ tịch là Hồ Chí Minh, phó chủ tịch là Nguyễn Hải Thần, bộ trưởng ngoại giao là Nguyễn Tường Tam (cả ba đều quen biết rõ nhau từ lúc ở Trung Quốc). Đây cũng là lí do Nguyễn Tường Tam làm trưởng đoàn đám phán của Chính phủ liên hiệp kháng chiến đi dự hội nghị Đà Lạt tháng 4 năm 1946 (Võ Nguyên Giáp làm phó đoàn).
Có một chi tiết mà lịch sử lại rất nghịch ngợm ở đây, đó là Trương Phát Khuê chính là người đã bắt bỏ tù Hồ Chí Minh ở Trung Quốc rồi lại thả ra (8/1942 đến 9/1943) để tận dụng nhân vật tài năng này xây dựng Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội (và vì vậy Nguyễn Ái Quốc dùng tên Hồ Chí Minh). Và Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội sau khi Hồ Chí Minh bỏ đi để về với Việt Minh, ngay lập tức chia rẽ nội bộ và suy yếu. Ngay cả tên Hồ Chí Minh, cũng được cho là do Nguyễn Ái Quốc sử dụng từ năm 1939 dưới vỏ bọc một sĩ quan Bát Lộ Quân của Diệp Kiếm Anh ở Quế Lâm để lẩn trốn sự truy tìm của trùm mật vụ quốc dân đảng là Tai Li (Dai Li, Taili, Đới Lạp, 戴笠) vốn có mạng lưới chân tay trên khắp đất Trung Hoa và cả ở các khu nhượng địa, đặc biệt là các nhóm xã hội đen hoạt động ngầm. Đây cũng là thời gian Mỹ ủng hộ quốc dân đảng của Tưởng để chống Mao và giữ các vùng đất sau khi Nhật rút đi, bằng cách gửi lực lượng quân sự của mình tới đây.
Cũng trong thời gian 1939-1940, dưới tên Hồ Quang (Hồ Chí Minh?), Nguyễn Ái Quốc đã gặp gỡ Chu Ân Lai (người quen cũ từ hồi ở Pháp 1921), liên hệ với nhóm VNĐLĐMH (Việt Minh) và ủy ban hải ngoại của ĐCS Đông Dương của Hồ Học Lãm , Hoàng Văn Hoan và Phùng Chí Kiên; đồng thời tìm cách liên lạc với Đảng cộng sản Đông dương ở trong nước nhưng bất thành. Cùng lúc này ở trong nước, Chu Văn Tấn và Hoàng Văn Thụ tổ chức khởi nghĩa Bắc Sơn. Tháng 5 năm 1940, lúc Võ Nguyên Giáp và Phạm Văn Đồng được Hoàng Văn Thụ gửi sang Trung Quốc, họ đã gặp Nguyễn Ái Quốc vào tháng 6 ở Côn Minh nhưng sử dụng tên cũ hồi ở Hồng Công là Vương. Đây là lần đầu tiên Võ Nguyên Giáp gặp Hồ Chí Minh, và là lần đầu tiên Hồ Chí Minh trở về đất mẹ. Họ đi vào Pắc Bó. Năm 1943, khi Hồ Chí Minh được Trương Phát Khuê thả ra khỏi tù, quản thúc rồi đồng ý cho về Việt Nam, Võ Nguyên Giáp và Vũ Anh đi đón lần thứ hai. Cuối năm 1944, Hồ Chí Minh đi Trung Quốc để trả cho quân Đồng Minh (thực tế là không lực Hoa Kỳ) trung úy Shaw (được Việt Minh cứu) cốt để kết nối với các cơ quan tình báo Mỹ OWI, OSS và tướng Chennault (tư lệnh không đoàn 14 của Mỹ) ở Côn Minh. Khi trở về Việt Nam vào cuối tháng 4 đầu tháng 5 năm 1945, thì Hoàng Quốc Việt và Chu Văn Tấn đã xây dựng xong chiến khu Cao Bằng, Bắc Cạn nên từ Pắc Bó Hồ Chí Minh đi xuống Kim Lung. Chính ở Kim Lung, toán Con Nai đã gặp Hồ Chí Minh. Từ Kim Lung họ cùng nhau đi tiếp đến Na Lừa, Kim Long và gặp Võ Nguyên Giáp lên đón. Đây là lần thứ ba Võ Nguyên Giáp đón Hồ Chí Minh. Tại đây Hồ Chí Minh đổi tên địa danh thành làng Tân Trào (New Tide).
Khi rời quê hương, Nguyễn Tất Thành có một danh và một phận. Khi rời Pháp qua Nga, Nguyễn Ái Quốc có danh và phận khác. Khi rời Trung Quốc trở lại quê hương sau nhiều năm lưu lạc, Hồ Chí Minh có danh và phận thứ ba. Khi rời Tân Trào về Hà Nội, tất cả các danh và phận chập lại thành một để trở thành sứ mệnh. Quãng đường đấy dài 35 năm, trong đó 5 năm cuối chủ yếu là đi bộ.
Còn ở ngay Hà Nội, Trường Chinh tổ chức Hội Văn Hóa Cứu Quốc và thành lập hai đảng Việt Nam Xã Hội Đảng và Việt Nam Dân Chủ Đảng. Đảng Dân chủ chỉ vài năm sau được Việt Minh sử dụng làm công cụ chính danh khi cướp chính quyền ở Hà Nội và thành lập chính phủ. Với sáng kiến này, cùng các quyết định đúng đắn (Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta – tháng 3 năm 1945) Trường Chinh đã tỏa sáng rất rực rỡ trong hàng ngũ lý luận của Việt Minh với tầm nhìn xa trông rộng của mình. Và phải rất lâu sau mới tỏa sáng thêm lần nữa, cũng ở vai trò Tổng Bí Thư, ở đêm trước Đổi Mới.
Tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp, rất bất ngờ và gọn ghẽ. Nhưng họ đã không chọn Cường Để, một nhân vật thân Nhật nhưng chống Pháp mà vẫn sử dụng Bảo Đại vốn thân Pháp. Người ký tuyên ngôn độc lập cho nước Việt, dưới sự che chở của Nhật, là Vua Bảo Đại cùng sáu vị thượng thư, trong đó có Phạm Quỳnh, vào ngày 11 tháng 3 năm 1945.
Tuyên ngôn độc lập này có đoạn: “Cứ tình hình chung trong thiên hạ, tình thế riêng cõi Đông Á, chính phủ Việt Nam tuyên bố từ ngày này điều ước bảo hộ với nước Pháp bãi bỏ và nước Nam khôi phục quyền độc lập. Nước Việt Nam sẽ gắng sức tự tiến triển cho xứng đáng một quốc gia độc lập và theo như lời tuyên ngôn chung của Đại Đông Á, đem tài lực giúp cho cuộc thịnh vương chung. Vậy Chính Phủ Việt Nam một lòng tin cậy lòng thành ở Nhật Bản đế quốc, quyết chí hợp tác với nước Nhật, đem hết tài sản trong nước để cho đạt được mục đích như trên.”
Bất ngờ hơn nữa, người Nhật không chọn Ngô Đình Diệm, vốn đang được quân đội Nhật che chở ở Sài Gòn làm thủ tướng, vì ông này trung thành với Cường Để. Thay vào đó họ chọn Trần Trọng Kim là một học giả nổi danh. Trước đó Trần Trọng Kim được người Nhật đưa đi trốn ở Singapore . Chính phủ Trần Trọng Kim với nội các toàn dân trí thức thượng lưu đã ra mắt quốc dân với tên gọi Đế Quốc Việt Nam (Vua Bảo Đại ký chấp thuận nội các này ngày 7 tháng 4 năm 1945). Thị trưởng Hà Nội đầu tiên, Đốc lý Trần Văn Lai, cũng chính là thị trưởng của chính phủ Trần Trọng Kim.
Thủ tướng Trần Trọng Kim đã ra thông tư yêu cầu sử dụng tiếng Việt trong công văn. Trong thời gian ngắn ngủi làm thị trưởng, Trần Văn Lai đã theo Trần Trọng Kim mà thay đổi ngôn ngữ hành chính từ Pháp qua Việt, thay các tên phố Hà Nội từ tên Pháp qua tên danh nhân Việt nhưng giữ nguyên tên 36 phố cổ để lưu giữ kỷ niệm cố đô, phá tượng Pháp dựng ở Hà Nội và tìm cách dựng tượng danh nhân Việt thay thế. Ngày đốc lý Trần Văn Lai họp ra quyết định này là ngày 27 tháng 7 năm 1945. Trong thời gian này Quốc Dân Đảng hoạt động rất mạnh trên cả nước. Sáng chủ nhật ngày 17 tháng 6 Trung ương đảng bộ của Quốc Dân Đang tổ chức lễ kỷ niệm Nguyễn Thái Học ở núi Khán Sơn trong Bách Thảo, đồng thời vận động người Hà Nội treo cờ. Đế quốc Việt Nam là nước thứ ba tuyên bố độc lập dưới sự che chở của Nhật (sau Lào và Cambodia).
Trần Văn Lai cho phá các tượng đồng ở Hà Nội, bao gồm cả tượng Bà Đầm Xòe (Nữ thần Tự Do). Các tượng này đến năm 1949, sau khi Pháp tái chiếm Hà Nội, được làng đúc đồng Ngũ Xã đúc thành tượng phật. Có lẽ quân đội Pháp hỗ trợ xe cộ, cần cẩu nên trong hình có cả lính Pháp.
Việc đầu tiên của Bảo Đại làm được là bỏ từ Annam, thay bằng Việt Nam. Những ngày đầu tiên Đế quốc này có lãnh thổ bé nhỏ, không có Nam Kỳ, không có các thành phố lớn Hà Nội, Hải Phòng, Đà nẵng (Nhật vẫn giữ). Bộ máy yếu ớt, không có Bộ Quốc Phòng, và Nhật vẫn nắm các sở công an, sở tuyên truyền, các Nha học chính, nha tư pháp, sở Bưu điện, sở tài chính.
Trong thời gian tồn tại ngắn ngủi, chính phủ Trần Trọng Kim đã đòi Nhật bàn giao lại tất cả. Ngày 8 tháng 8 năn 1945 (cũng là ngày Liên Xô tiến vào Mãn Châu) Nhật trả nốt Nam Kì cho chính phủ Trần Trọng Kim (Trần Trọng Kim gọi là Nam Bộ). Đất nước coi như thống nhất. Đen một cái là Việt Minh quấy quá và quan chức thân Việt Minh ngăn cản, Trần Trọng Kim không thể vào Sài Gòn nhận Nam Kì.
Bảo Đại bổ nhiệm Nguyễn Văn Sâm (đảng Quảng Xã) làm Nam Bộ Khâm Sai ngày 14 tháng 8. Trần Trọng Kim coi như xong việc của mình, xin từ chức. Từ ngày 12 đến ngày 16 nội các của Trần Trọng Kim gần như tan rã. Khâm sai ở Bắc Kỳ Phan Kế Toại không đàm phán được với đại diện của Việt Minh (Ủy Ban Khởi Nghĩa/Ủy Ban Quân Sự Cách Mạng Hà Nội của Nguyễn Khang) cũng chạy vào Huế. Do đó nhà nước Bảo Đại cho hình thành chính phủ lâm thời và Ủy ban cứu quốc của Nguyễn Xuân Chữ và Trần Văn Lai vào ngày 16 tháng 8 như đã nói ở trên.
Ngày 17 tháng 8, Bảo Đại họp nội các, ra đạo Dụ số 105 tuyên bố nhà Vua sẵn sàng trao chính quyền cho Việt Minh và mời lãnh đạo Việt Minh vào Huế lập nội các. Cùng ngày, Hoàng Đế xuống Chiếu động viên nhân dân. Nhờ đạo Dụ 105 mà cách mạng đã tránh được đổ máu. Các lực lượng bảo an binh là lực lượng cảnh sát do Nhật đào tạo và chỉ huy, do đã bàn giao cho Trần Trọng Kim về hình thức nên đã tuân thủ đạo Dụ này. Khi Nguyễn Xuân Chữ bàn giao Bắc Bộ Phủ thì bảo an không động súng, tránh đổ máu, dù lực lượng này tinh nhuệ hơn hẳn Việt Minh. Bảo an Hà Nội sau là nòng cốt của công an Hà Nội, nhưng quá khứ Nhật của họ bị xóa mờ, đồng thời đổi tên thành Công An theo lối tàu của Mao.
Ngày 23 tháng 8, tức chỉ 4 ngày sau Cách Mạng Tháng 8, Bảo Đại nhận được yêu cầu thoái vị từ Chính phủ nhân dân cách mạng của Hồ Chí Minh. Tìm hiểu một hồi, Bảo Đại biết Hồ Chí Minh là ai, bèn thoái vị và trở thành công dân nước độc lập, ra Hà Nội làm cố vấn Vĩnh Thụy. Trong hồi ký “Một cơn gió bụi” của Trần Trọng Kim đăng trên báo năm 1949 có nhắc lại câu nói lừng danh của Bảo Đại về việc này.
Ở Bắc Bộ, Việt Minh làm chủ tình hình nhờ tảo thanh triệt để các phe đối lập. Quân Trung Hoa (Tưởng Giới Thạch, lúc này Hồng Quân của Mao chưa thắng thế, và cũng không phải ở phe Đồng Minh), yểm trợ cho Quốc Dân Đảng và nhùng nhằng với cả Việt Minh lẫn Pháp. Việt Minh ký Hiệp ước sơ bộ Pháp Việt (ngày 6 tháng 3 năm 1946) để lấy tính chính danh cho chính phủ Việt Minh nằm trong Liên hiệp Pháp đồng thời đồng ý cho quân đội Pháp (tướng Leclerc) quay lại miền bắc để đẩy quân Tưởng, kẻ thù của Việt Minh ra khỏi lãnh thổ. Quốc Dân Đảng và Đại Việt gặp tai nạn nặng khi khi mất hậu thuẫn Trung Hoa, nên bị quân đội Pháp và Việt Minh, lúc này chưa chiến tranh, phối hợp tiễu trừ. Các chiến khu của Đại Việt và Quốc Dân Đảng, hai lực lượng chống Pháp quyết liệt, ở dọc sông Hồng bị lực lượng vũ trang Việt Minh của Võ Nguyên Giáp tấn công và xóa sổ. Trương Tử Anh bị bắt. Các lãnh đạo Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh), Vũ Hồng Khanh nhanh chân đi thoát qua biên giới. Thế nhưng Hiệp ước sơ bộ có nội dung thỏa hiệp với Pháp (chấp nhận cho Việt Nam nằm trong Liên Hiệp Pháp) và rước quân đội Pháp trở lại Việt Nam, về pháp lý đã tạo ra một nước Việt Nam chỉ có Bắc bộ và Trung bộ, và do đó lại đặt Việt Minh vào thế đối lập với các đảng phái và các tổ chức có vũ trang có tinh thần chống Pháp ở Nam bộ. Nam bộ chỉ sáp nhập trở lại với Việt Nam được sau đó mấy năm nhờ công đàm phán của Bảo Đại (Hiệp ước Élysée năm 1949).
Ở Nam Bộ tình hình rắc rối hơn nhiều. Ngay sau khi Nhật đầu hàng, Mặt Trận Dân Tộc Thống Nhất bao gồm tất cả các lực lượng khác nhau, bao gồm cả Việt Minh vẫn Cao Đài, Hòa Hảo …nổi lên. Một trong các lãnh đạo của mặt trận này là Ngô Đình Diệm. Lãnh đạo Việt Minh ở Sài Gòn lúc đó là Trần Văn Giàu (Bí thư xứ ủy, sau khởi nghĩa đứng đầu Lâm ủy hành chính), Dương Bạch Mai (là ủy viên trưởng của quốc gia tự vệ cuộc nằm trong Lâm ủy hành chính). Chính quyền Việt Minh ở Sài Gòn chỉ tảo thanh được các nhóm đối lập giàu trí thức mà kém vũ trang là nhóm Lập Hiến (Bùi Quang Chiêu) và nhóm Troskist (Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm). Cả Trần Văn Giàu và Dương Bạch Mai đều có quan hệ cá nhân với nhóm Trotkist do cùng hoạt động chính trị hồi ở Paris hoặc quen nhau trong tù thực dân. Đường hướng vô sản của Troskist (Đệ tứ quốc tế, tả đối lập với Đệ tam quốc tế Stalinist của Việt Minh) khiến cho nhóm Phan Văn Hùm, Tạ Thu Thâu rất nổi trong quần chúng lao động khi nhóm này rời Pháp quay về Sài Gòn để hoạt động chính trị. Đặc biệt là nhà cách mạng Tạ Thu Thâu rất được ngưỡng mộ. Phan Văn Hùm bị ám sát ở Thủ Đức không gây ồn ào, nhưng Tạ Thu Thâu bị xử chém công khai ở Quảng Ngãi, Việt Minh phải thay mấy nhóm hành quyết mới giết nổi ông này vì uy danh lớn quá, không ai dám ra tay. Ngô Đình Diệm bị công an Việt Minh bắt và chuyển ra Hà Nội. Các nhóm như Hòa Hảo, Cao Đài súng ống đầy mình do Nhật yểm trợ nên Việt Minh không thể cưỡng được, đành thôi. Tuy nhiên lãnh tụ Hòa Hảo là Huỳnh Phú Sổ bị phục kích, bị bắt và giết chết sau đó hơn một năm, khi chiến tranh Pháp Việt đã nổ ra (1947). Lực lượng Thanh Niên Tiền Phong rời Sài Gòn đi về nông thôn. Trần Văn Giàu coi như mất giá, phải ra Hà Nội làm nhà nghiên cứu cạo giấy, mở đường cho hai siêu sao là Nguyễn Bình (vốn là đảng viên quốc dân đảng, sau khi đi tù Côn Đảo đã chuyển qua hàng ngũ cộng sản lãnh đạo các hoạt động quân sự) và Lê Duẩn (lãnh đạo chính trị). Hồi ký Trần Văn Giàu, xuất bản không chính thức từ bản thảo ở Long An, hé lộ một nửa chuyện này. Sách về Cách Mạng Tháng 8 và sử đảng xuất bản ở HN những năm 1960 không nhắc gì đến Nguyễn Bình và Trần Văn Giàu. Ở giai đoạn này Dương Bạch Mai, Nguyễn Bình ở tuổi trên 40 và nắm Công An, Quân đội. Lê Duẩn, Trần Văn Giàu trẻ hơn, đều dưới 40 và nắm xứ ủy.
Ở Nam Bộ, quân Đồng Minh Anh rút đi, để lại Đông Dương cho Pháp. Ở đây có những phép đảo nghịch khá thú vị. Khi Nhật đảo chính Pháp, quân đội Pháp đóng ở Bắc Bộ, bao gồm cả sĩ quan Pháp gốc Việt, chạy qua biên giới Việt Trung, sau họ quay lại, gây sức ép lên Việt Minh. Ở Nam Bộ, sau khi Nhật đầu hàng, các sĩ quan Nhật không muốn rơi vào tay đồng minh kẻ thì tự tử, kẻ chạy qua Liên Việt (do Việt Minh lập ra). Trung úy Yushida chạy qua làm cố vấn cho quân đội Cao Đài, đại úy Kani Bushi làm cho Hòa Hảo. Hai sĩ quan Nhật đi làm như vậy là do một sĩ quan cao cấp hơn tên là Ishitako giao nhiệm vụ. Ishitako làm cho Việt Minh ở Liên Khu 5 với tên Việt là Nguyễn Thống. Việt Minh kiểm soát Liên khu 5 rất lâu (cho đến chiến dịch Atlante năm 1953 Pháp mới chiếm được).
Trong thời gian này, Nguyễn Thống tiếp tục giao cho Shiato là cựu tư lệnh Hiến binh Nhật mở các khóa đào tạo tình báo cho Việt Minh ở Quảng Ngãi. Nguyễn Thống cũng chỉ huy mở đường mòn nối Liên Khu 5 (Nam Trung Bộ) và Liên Khu 7 (Nam Bộ). Đường này có tên đường Liên Việt Liên Khu 5. Đây chính là đường mòn Hồ Chí Minh sau này. Bản thân Nguyễn Thống mở các lớp đào tạo sĩ quan ở miền tây. Các sĩ quan Nhật đã đóng góp rất nhiều cho các khóa đầu của Trường lục quân trung học Quảng Ngãi do tướng Nguyễn Sơn làm hiệu trưởng. Năm 1950, Nguyễn Sơn quay trở lại Trung Quốc, các sĩ quan Nhật như Nguyễn Thống, Shiato, các sĩ quan của Nguyễn Bình … đều bị Việt Minh cô lập hoặc tảo thanh để giữ cho hàng ngũ cao cấp của họ được “kinship” đồng chất đồng màu.
Sau khi Nam Kỳ khởi nghĩa thất bại (1940), Nhật thay Pháp cai trị Đông Dương, thì có ba phong trào rất phát triển. Một là, Hòa Hảo của Huỳnh Phu Sổ. Hai là Thanh niên tiền phong. Ba là Cao Đài của Trần Quang Vinh.
Cao Đài có hàng triệu tín đồ ở Lục Tỉnh. Chủ trương thân Nhật. Lãnh đạo của Cao Đài đưa hàng vạn người lên Sài Gòn làm việc cho các cơ sở của Hiến binh Nhật (chủ yếu là làm công nhân bến bãi cảng).
Lãnh tụ của Hòa Hảo được hiến binh Nhật cứu, cũng nghiêng về Nhật (chính đảng của họ tên là Dân Chính Đảng).
Nguyễn Văn Tây (Thanh Sơn) vốn là người Vĩnh Long. học trung học ở Cần Thơ, nhưng bỏ học qua làm học sinh khóa ba của Thanh niên cách mạng đồng chí hội.sau làm bí thư đầu tiên của tỉnh ủy bí mật Gia Định. Thanh Sơn đi cùng Ba Khiêm đến gặp Huỳnh Phú Sổ và đặt vấn đề hợp tác.
Tháng 3 năm 1945, Thống đốc Nam Kỳ (lúc này là Nhật) Minoda và Tổng lãh sự Ida đề nghị bác sĩ Phạm Ngọc Thạch lập một tổ chức thanh niên ở SG (đồng thời ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ cũng có tổ chức thanh niên do Phan Anh thành lập). Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch là trí thức cực kỳ giàu (xuất thân hoàng gia, lấy vợ tây, có quan hệ với đại tư sản Huỳnh Văn Hòa tức Hui Bon Hoa, có đồn điền cà phê ở Đơn Dương). Bác sĩ Thạch lập Thanh niên Tiền phong với lá cờ vàng sao đỏ, sắc phục là quần short áo sơ mi cộc tay, đội mũ rộng vành bằng lá bàng (nón bàng). Lãnh đạo Thanh niên Tiền phong toàn đại trí thức hồi đó (kỹ sư, luật sư, bác sỹ). Việc Phạm Ngọc Thạch đồng ý với Nhật sau nay được gọi là :tương kế Nhựt Bổn, tựu kế Việt Minh.
Đến tháng 5 năm 1945, sau đại hội Thanh niên Tiền phong Cần thơ, Hòa Hảo hỗ trợ lực lượng cho Thanh niên tiền phong, người của Hòa Hảo nhưng mặc sắc phục Thanh niên tiền phong, chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa (cách mạng tháng 8) ở miền Tây Nam Bộ. Đến đầu tháng 8, lãnh tụ Cao Đài Cao Minh Chơn cũng đồng ý tham gia Việt Minh. Giữa tháng 8, Huỳnh Phú Sổ thành lập Mặt trận Quốc gia Thống nhất nhưng đã thiếu manh động kiểu Việt Minh nên không cướp chính quyền dù biết Nhật đầu hàng.
Sau cách mạng tháng tám chỉ vài ngày, Việt Minh cho công an của mình là Tự vệ cuộc do Lý Huệ Vinh cầm đầu cho quân vây bắt Huỳnh Phú Sổ ở các biệt thư nay nằm ở góc Nguyễn Văn Thủ (Sohier) – Phùng Khắc Khoan (Miche) (trụ sở Hòa Hảo và nhà riêng tướng Năm Lửa) mà không được.
Có lần Lý Huệ Vinh, mật thám cũ của Nhật, được Việt Minh cho làm cảnh sát trưởng Sài Gòn, bắt Huỳnh Phú Sổ ngay cửa Nam Bộ Phủ (dinh Gia Long) lúc đó là trụ sở Lâm ủy hành chánh Nam Bộ mà Huỳnh Phú Sổ là ủy viên. Tổng bộ Việt Minh của Hoàng Quốc Việt phải can thiệp thả ra. Sau này Hòa Hảo đòi quyền lợi ở Tây Nam Bộ, bắt nhiều bí thư địa phương trao quyền cho Hòa Hảo, dẫn đến nhiều lãnh đạo Hòa Hảo bị xử tử ở Cần Thơ.
Khi quân Anh bắt Việt Minh giải giáp dân quân, Thanh niên Tiền phong phải phân tán thành các lực lượng với các tên gọi khác nhau, trong đó có Quốc gia tự vệ cuộc (công an) để bảo toàn lực lượng và giữ lại được vũ khí (chủ yếu do Phạm Ngọc Thạch đàm phán với thống chế Terauchi, tổng tư lệnh quân đội Nhật ở Đông Nam Á, mà xin được). Đến tháng 10, sau khi Dương Bạch Mai bị điều ra Bắc, Quốc gia tự vệ cuộc do Bảy Trấn lãnh đạo.
Ủy ban hành chánh lâm thời, sau khi Hoàng Quốc Việt đại diện tổng bộ Việt Minh vào Sài Gòn chỉ đạo trực tiếp, đã thay Trần Văn Giàu bằng Hai Bạch. Phó là Phạm Ngọc Thuần. Bắt đầu có rạn nứt giữa phe cộng sản: Phe Mao-ít từ bắc vào (sử dụng phe miền nam đi dự Tân Trào gọi là phe Giải Phóng) và phé đệ tam của Giàu ở miền nam (phe Tiền Phong). Mọi việc thực sự chấm hết khi Hoàng Quốc Việt giải tán lực lượng Thanh niên Tiền Phong có tới cả triệu thành viên. Đồng thời Hoàng Quốc Việt làm cuộc chỉnh đốn Đảng đầu tiên ở Nam Bộ. Sáp nhập và thay máu tất cả các xứ ủy, tỉnh ủy. Đưa Tôn Đức Thắng làm bí thư Xứ Ủy. Tới tháng 10 năm 1945, sau khi Kháng chiến bắt đầu, và Ủy ban kháng chiến được thành lập thì Trần Văn Giàu, Phạm Ngọc Thạch và Dương Bạch Mai bị đưa ra Bắc. Sau này Phạm Ngọc Thạch nói: “J’arrive pas à comprendre comment le Vieux arrive à supporter tous ces cons”. Dương Bạch Mai ra Hà Nội, được cử vào phái bộ dự Hội nghị trù bị Đà Lạt, rồi phái bộ dự Fontainebleau. Bị bắt ngay ở Pháp, đưa về Sài Gòn xử ở tòa quân sự, được giảm án và đưa lên Cao Nguyên giam lỏng, Dương Bạch Mai đào thoát và đi ra Việt Bắc. Sau 1954, về Hà Nội, rồi chết đột tử ngay trong lúc họp quốc hội năm 1964.
Tháng 12 năm 1945 thành lập Ủy ban Kháng chiến miền Nam Việt Nam. Ủy ban đặt tại Quảng Ngãi. Đây là thời gian thủ lĩnh phe đệ tứ Tạ Thu Thâu, một cựu tù Khám Lớn và Chợ Quán, vốn có ân oán trong tù với Nguyễn Thanh Sơn, bị Việt Minh bắt và tử hình.
Tới tháng 2 năm 1946 Nguyễn Bình chính thức thanh tẩy lực lượng, đỏ hóa nhân sự và thu nhận các lực lượng vũ trang khác, “đánh chung, đi riêng”. Thế nhưng quân Bình Xuyên hoạt động ở miền Đông (chiến khu 7) rất nghi ngại Nguyễn Bình đang nắm vai trò ủy trưởng Quân sự khu 7. Các tướng Bình Xuyên Huỳnh Văn Trí (Mười Trí), Lê Văn Viễn (bảy Viễn) bắt đầu đề phòng Nguyễn Bình. Hòa Hảo lúc này được Mười Trí bảo vệ nên Huỳnh Phú Sổ coi Mười Trí như anh em (Sư thúc Hòa Hảo).
Ủy ban Kháng chiến miền Nam Việt Nam chia Nam Bộ chia làm ba khu. Nguyễn Bình làm Khu trưởng khu 7. Thanh Sơn làm quyền trưởng khu 9. Trạm liên lạc ra Bắc của Ủy ban kháng chiến miền Nam Việt Nam đặt tại Nha Trang. Phạm Ngọc Thảo làm trạm trưởng. Anh của Phạm Ngọc Thảo là Phạm Ngọc Thuần, làm phó chủ tịch Ủy ban hành chánh Nam Bộ. Đây là giai đoạn Lê Duẩn mới được đưa từ Côn Đảo về làm việc với Hồ Chủ Tịch ở Hà Nội rồi được cửa vào Nam Bộ. Từ Nha Trang, Phạm Ngọc Thảo đưa Lê Duẩn vào Nam, trên đường nhiều lúc Thảo phải cõng Duẩn vì Duẩn quá yếu. Sau khi đưa Lê Duẩn về Nam Bộ (có lẽ là về quân khu 9) an toàn, Phạm Ngọc Thảo ở lại Nam Bộ.
Giữa năm 1946, Hoàng Quốc Việt thôi làm chủ tịch Ủy ban kháng chiến, Nguyễn Sơn lên thay. Sau đó Nguyễn Sơn bị điều ra bắc làm Quân Huấn.
Cùng quãng thời gian này, Huỳnh Phú Sổ được Việt Minh mời làm ủy viên đặc biệt trong Ủy ban kháng chiến. Trước đó ông là ủy viên của Ủy ban hành chánh lâm thời Nam Bộ do Trần Văn Giàu đứng đầu (phó là Bảy Trấn). Tháng 4 năm 1946, Huỳnh Phú Sổ tổ chức đại hội quân chính bao gồm cả tôn giáo qua chính trị và quân sự để Mặt trận Thống nhất Quốc gia Liên hiệp cùng nhằm thay thế Mặt trận Việt Minh. Về mặt chính trị phe cộng sản gửi được Phạm Thiều và Mai Thọ Trân tham gia. Về quân sự, họ gửi Phan Định Công thay mặt Nguyễn Bình. Bộ đội Bình Xuyên gửi được tới vài chỉ huy tham gia, trong đó có Mười Trí (chỉ huy Vệ Quốc Đoàn). Đứng đầu Mặt Trận này là Huỳnh Phú Sổ (với tên hiệu Hoàng Anh) và Mười Trí. Ngày 21 tháng 9 năm 1946, Huỳnh Phú Sổ thành lập Việt Nam Dân chủ Xã hội Đảng, gọi tắt là Dân Xã đảng, việc này dẫn đến việc Huỳnh Phú Sổ bị Việt Minh lừa vào ổ phục kích, bắt và xử tử bí mật tháng 4 cùng năm.
Các cái chết của mẹ đẻ Louis Martin, của Tôn Thất Bình (hiệu trưởng Thăng Long và con rể Phạm Quỳnh) ở Hà Nội ngay sau Cách mạng Tháng Tám. Rồi cái chết của Dương Minh Châu (thủ khoa cao đẳng Luật Hà Nội năm 1938) khi đang là đại diện Việt Minh làm việc với Phạm Công Tắc năm 1947. Rồi cái chết của Nguyễn Bình trên đường ra Bắc năm 1951. Tất cả xâu chuỗi, rất có thể quay về một mối. Việt gian của Pháp mà theo Tàu.
Năm 1947 Lê Duẩn chỉ đạo xứ ủy Nam Bộ hợp nhất Ủy ban kháng chiến và Ủy ban hành chánh Nam Bộ thành Ủy ban kháng chiến hành chánh Nam Bộ. Trong đó có Ban quân sự Nam Bộ có Nguyễn Thanh Sơn làm trưởng ban và Phạm Ngọc Thảo Trưởng phòng Mật vụ (quân đội) Nam Bộ. Ban quân sự cũng thành lập Trường Lục Quân Gia định theo mô hình Lục Quân Quảng Ngãi của tướng Nguyễn Sơn. Cũng bắt chước Nguyễn Sơn sử dụng hiến binh Nhật, trường Lục quân Gia Định có đại tá Nguyễn Thống người Nhật làm hiệu trưởng, khai giảng tháng 4 năm 1948. Cũng năm này mở Trường Quân Chính Campuchia ở Ba Hòn (Kiên Giang). Sau đó một năm (1949) mở đường Xuyên Tây để thống nhất lãnh đạo cán bộ quân sự Nam Bộ, Miên, Thái Lan. Đến năm 1950 thành lập liên minh Việt Miên Kháng Chiến do Thanh Sơn và Sơn Ngọc Minh đứng đầu hai phía.
Năm 1948, Ủy ban kháng chiến hành chánh Nam Bộ thành lập Ban hải ngoại Nam Bộ, sau đổi làm Ban ngoại vụ Nam Bộ, lo các vấn đề quân sự với Cambodia. Trưởng ban là Thanh Sơn. Năm 1954, Thanh Sơn tham gia Geneva với vai trò là thành viên Đoàn quân sự của VNDCCH – Lào – Cambodia nên sau khi ký Geneve, Thanh Sơn mang hàm đại tá, trưởng phái đoàn liên quân Miên-Việt đàm phán đình chiến với quân đội Hoàng Gia Cambodia do đại tá Lon Nol làm trưởng đoàn . Đồng thời Thanh Sơn là trưởng pháo đoàn đại diện Bộ Tổng tư lệnh quân đội VNDCCH trong Ủy ban liên hiệp đình chiến Việt Nam – Cambodia. Phạm Ngọc Thảo tham gia với vai trò phiên dịch chính thức của Bộ Quốc Phòng nhưng thực tế là làm nhiệm vụ tình báo. Năm 1965 Lon Nol lên thủ tướng Cambodia. Cũng năm này, sau nhiều lần tổ chức đảo chính làm điên đảo chính trường Sài Gòn, Phạm Ngọc Thảo bị mật vụ của Nguyễn Văn Thiệu bắt và giết
Ở Bắc Bộ, quân Đồng Minh Tàu Tưởng rút đi khỏi đất liền miền bắc nhưng vẫn chiếm các hải đảo (giải giáp từ quân Nhật) vốn trước do Pháp công nhận thuộc Annam do Pháp bảo hộ (1932), sau Pháp sáp nhập vào Đông Dương Thuộc Pháp (cũng trong năm 1932). Hải quân Pháp không chịu mất chủ quyền của quốc gia, đánh nhau với quân Tàu Tưởng, đến năm 1950 mới xong.
V. Những gì xảy ra trong 1949-1950, chuyện Hoàng Sa, Trường Sa, Cochinchina và di sản của thời kỳ này.
Năm 1950, theo hiệp ước Élysée mà chính phủ Pháp ký với Bảo Đại, Nam Bộ (Cochinchina) quay trở về với đất mẹ Việt Nam. Lần đầu tiên ba miền thống nhất. Cochinchina, bao gồm cả Khmer Prom và đảo Phú Quốc cũng thoát được nỗ lực xâu xé của hoàng thân Sihanouk. Pháp cũng bàn giao Hoàng Sa và Trường Sa cho Quốc gia Việt Nam (State of Vietnam) của Bảo Đại.
Lúc này, ở Hoàng Sa, Trường Sa đã có hoạt động khoa học của Pháp: các trạm khí tượng do Pháp thành lập từ trước 1940. Tổ chức khí tượng thế giới (OMM) chấp thuận đăng ký các trạm khí tượng Hoàng Sa, Trường Sa vào danh sách các trạm khí tượng thế giới: trạm Phú Lâm số hiệu 48859, trạm Hoàng Sa số hiệu 48860, trạm Ba Bình số hiệu 48419. Năm nhân viên khí tượng đầu tiên được cử ra Hoàng Sa là do Nguyễn Xiển đào tạo ở trạm thiên văn Phủ Liễn năm 1937.
Ngày 14/10/1950, Thủ hiến Trung kỳ là Phan Văn Giáo đã chủ trì việc bàn giao quyền quản lý quần đảo Hoàng Sa từ Chính phủ Pháp sang Chính phủ Quốc gia Việt Nam. Tuy nhiên quân đội Pháp vẫn đóng ở Hoàng Sa cho tới 1956. Phan Văn Giáo được Quốc Trưởng Bảo Đại bổ nhiệm ngày 5/7/1949 cùng thời gian với ông Trần Văn Hữu được làm Thủ hiến Nam Việt, và ông Nguyễn Hữu Trí làm Thủ hiến Bắc Việt. Phan Văn Giáo người Khánh Hòa vốn là dược sỹ và kinh doanh thuốc, làm ngân hàng và tham gia chính trị, rất giàu có ở Thanh Hóa. Năm 1945 bị Hoàng Đạo (Việt Minh) bắt, rồi bỏ trốn được ra Hà Nội. Sau Phan Văn Giáo được phong hàm Trung Tướng để xây dựng quân đội miền trung (Việt Binh Đoàn), tiền thân của quân đội VNCH sau này.
Tháng 9 năm 1951 diễn ra Hội nghị San Francisco. Đây là hội nghị của các nước Đồng Minh (phe thắng trận thế chiến 2) tổ chức để giải quyết các vấn đề hậu chiến ở Châu Á Thái Bình Dương, trong đó có giải quyết các tài sản của Nhật và quan hệ ngoại giao với Nhật. Có 51 nước được mời, không có Trung quốc lục địa (của Mao). Việt Nam được mời với tư cách là thành viên của Liên Hiệp Pháp. Về Hoàng Sa và Trường Sa: ngày 5 tháng 9 năm 1951, đại diện Liên Xô là Andrei Gromyko (sau này rất nổi tiếng ở Việt Nam với vai trò ngoại trưởng) đề nghị trao hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc (của Mao). Đề nghị này được bỏ phiếu và kết quả là 3 phiếu thuận, 1 phiếu trắng và 47 phiếu chống. Hội nghị đã bác bỏ đề nghị này của Liên Xô! Hai ngày sau, ngày 7 tháng 9 năm 1951,thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Trần Văn Hữu, trưởng đoàn Quốc Gia Việt Nam, đăng đàn xác nhận chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Ông nói: “Và để tận dụng không ngần ngại mọi cơ hội để dập tắt những mầm mống bất hòa, chúng tôi khẳng định chủ quyền của chúng tôi trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ xưa đến nay vẫn thuộc cương vực Việt Nam”. Không có nước nào phản đối tuyên bố này, kể cả đoàn Liên Xô. Điều này một lần nữa được hiệp ước Geneva (sau Điện Biên Phủ 1954) công nhận cho chính phủ Bảo Đại ở phía nam vĩ tuyến 17.
Công lao của Bảo Đại với Nam Bộ, sau là cả Việt Nam, ở chỗ này không thể không công nhận. Hai ông hoàng Bảo Đại và Cường Để đã làm được những việc xứng đáng với dòng dõi vua chúa lập quốc của mình.
Tháng 5 năm 1956 lợi dụng Quốc gia Việt Nam lúc này mới chuyển thành Việt Nam Cộng Hòa (1955 với Ngô Đình Diệm là Tổng thống đầu tiên), Tàu Tưởng Đài Loan chiếm Ba Bình Trường Sa. Ngay lập tức Ngô Đình Diệm cho hải quân ra đánh chiếm lại (tháng 8 năm 1956).
Đến năm 1974, thay vì quân Tưởng ở Đảo, lần này quân Mao ở Lục Địa, đánh Hoàng Sa. Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa năm 1974 (sau hiệp định Paris) đã suy yếu lắm rồi. Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa lúc bấy giờ, dù biết hải quân mình yếu và kém cỏi hơn hẳn, vẫn ra lệnh đánh trả. Đây là quyết định sáng suốt nhất và có tính chiến lược nhất của Nguyễn Văn Thiệu. Đánh trả chính là tuyên bố chủ quyền mạnh mẽ nhất. Nó cũng chuyển tải thông điệp cho đời sau: để lấy lại Hoàng Sa, không cách nào khác là phải dùng biện pháp quân sự.
Trong các sách của người Châu Âu viết về đất nước, con người và lịch sử của chúng ta từ những năm cuối thế kỷ 16 đến đầu thế kỷ 19, có nhiều cách họ nhìn nhận chúng ta vừa thú vị vừa tạo thành di sản lịch sử.
Một trong những điểm họ đánh giá về đất nước chúng ta, ở cái thời kỳ mông muội ấy, là chẳng có gì ngoài lợi thế địa lý. Họ ở đây là các hải đội của Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan, Anh và sau này là Pháp. Trên các con tàu ấy là hải quân, là các tu sỹ dòng Tên, dòng Đa Minh, dòng Phan Xi Cô, là các nhà buôn Bồ Đào Nha, Hà Lan và Anh. Ở giữa những người Châu Âu văn minh, người Việt mông muội, là các thương gia Hoa, thương gia Nhật và cả giáo dân Nhật, các linh mục lai giữa người Bồ và người Đông Nam Á.
Người Châu Âu là người vẽ bản đồ thế giới. Họ biết cái gì thì vẽ cái đấy. Biết tên gì thì đặt tên đấy. Thực tế trước khi người Bồ vẽ lại bản đồ thế giới, chỉ có biển của người Chàm (Sea of Champa, Champa Sea). Người Châu Âu biết đến Trung Hoa, Nhật Bản, Malaysia và Chăm Pa trước khi biết đến chúng ta. Biển Đông là cách chúng ta đặt gọi vùng biển của mình vì biển này ở phía Đông. Nó được người Trung Quốc gọi là Nan Hai vì ở phía Nam của họ. Cách đặt và gọi tên này tự nó cho thấy tính địa phương mà thiếu tính quốc tế. Các nước Đông Nam Á gọi vùng biển này là Champa Sea. Rồi trên bản đồ tên Biển Chăm Pa được thay thành Biển Trung Hoa bởi người Bồ Đào Nha, lúc đó là cường quốc số một về hàng hải, vẽ bản đồ là Mar Da China. Sau này đổi thành biển Nam Trung Hoa để phân biệt với vùng biển phía bắc.
Quay lại lợi thế địa lý. Vì các lý do cấm xuất nhập khẩu ở Nhật, cấm đạo ở Nhật và Trung Quốc, tự nhiên
Phố Hiến và Hội An trở thành hai thương cảng lớn, đặc biệt là Hội An. Các tàu buôn và truyền giáo bắt đầu đi từ Malacca, Macao và Nhật bản đến Hội An và Phố Hiến. Phố Hiến còn là nơi tụ tập của thương nhân Hoa bởi triều đình, lúc đó là chúa Trịnh, cấm tiệt người Hoa sống ở Kẻ Chợ.
Người Châu Âu coi hai xứ này là hai nước riêng biệt. Nước của Vua Nguyễn là Cochinchina. Nước của vua Lê và Chúa Trịnh là Tonkin. Bất chấp nguồn gốc của hai cái tên này, nhưng khi dịch ra tiếng Việt thì Cochinchina phải là Vương Quốc Đàng Trong (Xứ Đàng Trong, Nam Hà, Nam Kỳ, Nam Bộ) còn Tonkin phải là Vương Quốc Đàng Ngoài (Xứ Đàng Ngoài, Bắc Hà, Bắc Kỳ, Bắc Bộ). Tên riêng Gulf of Tonkin hiện vẫn còn tồn tại.
Cochin là cách đọc tên Giao Chỉ bằng tiếng Malay rồi phiên âm qua tiếng Bồ. Cochinchina là Nước Giao Chỉ cận Tần (Trung Hoa), nhưng chỉ đây là tên gọi của người Âu cho mảnh đất này, bản chất cái tên này chỉ là để gọi vùng đất Đàng Trong. Sau này xứ Đàng Trong (Cochinchina) sáp nhập với Miền Tây (của Mạc Thiên Tứ) và được gọi bằng nhiều tên khác nhau: Nam Phần, Nam Kỳ, Nam Bộ … và rồi hiện nay được gọi là Miền Nam.
Có một chi tiết là trong cuộc cạnh tranh chiếm đất thuộc địa của Anh và Pháp nhân lúc Bồ Đào Nha suy yếu, người Anh đã đến Việt Nam (ngày nay) rất sớm. Họ đã chiếm Côn Đảo (đặt căn cứ hải quân, văn phòng thương mại) mấy năm rồi lại bỏ đi. Họ cũng đặt văn phòng thương mại ở Phố Hiến, rồi Kẻ Chợ, rồi cũng bỏ đi. Người Hà Lan cũng bỏ xứ Đàng Ngoài mà đi. Người đến sau, là người Pháp, cuối cùng lại là kẻ chiếm miền đất này. Khi người Pháp đến Côn Đảo hơn 100 năm sau, họ còn thấy tàn tích nhà cửa pháo đài do người Anh xây dựng. Có lẽ ở gần cái vũng phía đầu sân bay Cỏ Ống bây giờ. Ở Côn Đảo có một mũi là mũi Tàu Chìm hay gì đó, có lẽ là tàu của quân Anh đến đây và bị đắm.
Trước khi Nguyễn Huệ nổi lên như một thế lực thì đã có những người Châu Âu buôn súng đại bác bán cho Đàng Trong (Chúa Nguyễn) và Đàng Ngoài (Chúa Trịnh). Có cả người Bồ ở lại xứ Đàng Trong, mở xưởng đúc đại bác ở gần Huế để bán cho vua Đàng Trong. Người nước ngoài cho rằng người Việt học nghề và làm nghề giỏi. Chỉ cho họ cách làm là họ có thể làm được. Người nước ngoài cũng cho rằng xứ Đàng Ngoài quá nghèo, không có vốn, họ làm được nhiều thứ để xuất khẩu, nhưng phải đặt hàng và ứng tiền thì họ mới làm. Điều này khiến cho quay vòng vốn rất chậm. Sản lượng xuất khẩu thấp. Họ cũng nhận thấy phụ nữ thích lấy người Châu Âu, kể cả với giá rẻ, để sinh con lai cho đẹp. Giá rẻ là vì hồi đó có thể bán vợ. Đàn ông nghèo, bán vợ cho các nhà buôn nước ngoài vài tháng, khi họ đang ở Phố Hiến hoặc Kẻ Chợ để đợi giao hàng.
Tất cả các thuyền bè, của hải quân, nhà buôn hay truyền giáo. Đến Đàng Trong hay Đàng Ngoài, từ Macao, Malacca đều đi qua một bãi đá ngầm lớn rồi vào cửa biển Hội An hoặc ra bắc vào cửa Thái bình rồi đến Phố Hiến. Bãi đá ngầm lớn này dần dần được ghi trên bản đồ là Paracel rồi là Paracel và Spratly. Bãi đá ngầm này được người Châu Âu cho rằng thuộc về Xứ Đàng Trong. Không phải vô cớ mà khi thống nhất đất nước, Nguyễn Ánh Gia Long, xác lập lãnh thổ của Việt Nam trên các hòn đảo Hoàng Sa, Trường Sa, Phú Quốc, Côn Đảo … Như vậy khi nói đến Paracel (Hoàng Sa) và Spratly (Trường Sa) ở thời kỳ này thì phải nói rằng Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về Vương Quốc Đàng Trong (Cochinchina) của các Vua Nguyễn.
VI. Lại quay về với năm 1946
Hiệp ước mùng 6 tháng 3 cho quân đội Pháp quay lại Đông Dương với người đứng đầu cực kỳ quyền lực (Cao Ủy) là đô đốc hải quân có cái tên dài lòng thòng là George Louis Marie Thierry D’Argenlieu. Ông này chống lại yêu cầu đòi thống nhất Nam Bộ của chính phủ Hồ Chí Minh. Đàm phán giữa hai phe diễn ra ở Đà Lạt nhưng thất bại. Đọc hồi ký Ký vãng Đà Lạt của Hoàng Xuân Hãn sẽ thấy không khí giai đoạn này. Để vứt Hiệp định sơ bộ Pháp Việt vào sọt rác D’Argenlieu thản nhiên dựng Nam Kỳ Cộng Hòa Quốc (Cộng Hòa Đàng Trong / Republic of Cochinchina) với Nguyễn Văn Thinh làm President . Nguyễn Văn Thinh có quốc tịch Pháp và là thành viên nhóm Lập Hiến của Bùi Quang Chiêu. Chính phủ bù nhìn này theo trường phái ly khai Nam Bộ nên bị các nhóm chống Pháp có vũ trang, từ Cao Đài, Hòa Hảo, Bình Xuyên và cả Việt Minh xúm lại đánh đập. Lực lượng của Việt Minh lúc này do siêu sao Nguyễn Bình, vốn là đảng viên Quốc Dân Đảng cũ, lãnh đạo. Các hoạt động vũ trang trong nội thành của Nguyễn Bình chính là mẫu hình cho các vụ đánh bom của Biệt động Sài Gòn sau này. Ý tưởng về một Liên bang Đông Dương gồm 5 bang (state) bao gồm Lào, Cambodia, Cochinchina, Annam, Tonkin nằm trong Liên hiệp Pháp (French Union) hình thành ở giai đoạn này.
Uy tín và tài năng cá nhân của Nguyễn Bình đã thống lĩnh được các lực lượng vũ trang chống Pháp vốn rất lộn xộn và hiềm khích nhau ở Nam Bộ, xây dựng Vệ quốc đoàn, đánh đập Pháp và chính phủ Cộng Hòa Nam Kỳ rất tàn nhẫn. Nhờ đó khi Hồ Chí Minh khi đi Pháp đã có những thỏa thuận (với Marius Moutet, bộ trưởng bộ hải ngoại) có lợi cho chính phủ Việt Minh và hai bên ngừng bắn. Việc này kết liễu luôn nhà nước Cộng Hòa Nam Kỳ. Nguyễn Văn Thinh tự sát.
Sau Hội nghị Đà Lạt và trước hội nghị Fontainebleau, D’Argenlieu đến Hà Nội gặp Hồ Chí Minh ngày 19/5/1946. Trước đó một ngày, ngày 18/5, báo Cứu Quốc đăng bài “Cụ Hồ Chí Minh với dân tộc Việt Nam” trong đó đầu tiên họ “tiết lộ” ngày sinh của vị chủ tịch là ngày 19/5 để hôm sau Hà Nội treo cờ hoa. Các thương thuyết Pháp Việt (Việt Minh) dùng dằng mãi rồi thất bại, chiến tranh Pháp Việt (Đông Dương lần thứ nhất) nổ ra. Chính phủ Việt Minh quay thủ phủ cũ của họ là Tân Trào.
Nếu tinh ý, ta sẽ thấy ngày 19 tháng 5 năm 1946 là ngày chủ nhật, và cũng là lễ Chúa Thánh thần hiện xuống, và cũng là sinh nhật của Giáo hội Công giáo. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, cũng là ngày chủ nhật và là ngày Lễ kính chung các chân phước tử đạo tại Việt Nam (các Kitô hữu hôm đó sau lễ ở nhà thờ Cửa Bắc đã đi bộ ra dự lễ Độc Lập, lễ kéo dài quá trưa). Ngày chủ nhật, hồi đó gọi là ngày Chúa Nhật (xem thêm trong Bầu trời chiều ẩn giấu.)
VII. Hình thành Việt Nam Cộng Hòa
Sau cái chết của Nguyễn Văn Thinh, chỉ trong thời gian ngắn, để thay thế Pháp lần lượt lắp Lê Văn Hoạch (Cao Đài) rồi Nguyễn Văn Xuân vào chỗ trống. Tất cả các nhân vật miền nam thân Pháp này, lại hùa với nhóm chống Việt Minh đang lưu vong ở Tàu, cùng nhau ủng hộ Bảo Đại. Bảo Đại lúc này ở Hong Kong (1947) và bắt đầu có tín hiệu muốn đàm phán với Pháp. Trong quá trình này, Pháp xây dựng Cộng Hòa Tự Trị Nam Kỳ với tướng Nguyễn Văn Xuân làm thủ tướng.
Nguyễn Văn Xuân có quốc tịch Pháp và là thiếu tướng trong quân đội Pháp, trở về Việt Nam khoảng tháng 8 năm 1947. Tháng 9 thì bác sỹ Lê Văn Hoạch từ chức, Hội đồng tư vấn Nam Kỳ bầu Nguyễn Văn Xuân lên thủ tướng ngày 1 tháng 10 năm 1947. Nguyễn Văn Xuân đổi tên Nam Kỳ thành Nam Phần. Cũng như bác sỹ Thinh và bác sỹ Thạch, tướng Xuân lên nhậm chức là tỏ rõ ý đồ thống nhất ba miền thành một nước Việt Nam. Nguyễn Văn Xuân không nói được tiếng Việt, nhưng làm việc giỏi, có ý đồ. Tháng 12, thủ tướng Xuân qua Hongkong gặp Bảo Đại bàn việc mở Chính phủ trung ương lâm thời (Provisional Central Government of Vietnam). Tên của chính phủ đã cho thấy chính phủ mới này chỉ là tạm thời, lấy chính danh để đàm phán với Pháp đòi thống nhất ba miền và độc lập cho Việt Nam.
Đại hội đảng phái và nhân sĩ cả nước họp tại Sài Gòn 20 tháng 5 năm 1948 bao gồm Hội đồng tham nghị Nam Phần, Hội đồng chấp tranh Trung phần và Bắc phần, các đoàn thể đảng phái khác. Đại hội bầu Nguyễn văn Xuân làm Thủ tướng chính phủ lâm thời. Ngày 27 tháng 5, chánh phủ mới qua Hongkong gặp Bảo Đại. Ngày 2 tháng 6 năm 1948 chính phủ ban hành Hiến pháp tạm thời (Provisional status), trong đó quy định quốc kỳ (cờ vàng ba sọc, biến thể từ cờ quẻ ly), quốc ca (Thanh niên hành khúc của Lưu Hữu Phước). Tháng 6 năm 1948, Nguyễn Văn Xuân và Bảo Đại ra Hạ Long ký hiệp định Hạ Long với Cao ủy Pháp lúc này là Bollaert. Nguyễn Văn Xuân và Bảo Đại đều trưởng thành và được đào tạo ở các trường đại học hàng đầu của Pháp, lại quen sống với giới thượng lưu của Pháp, nên thái độ đàm phán với Pháp rất tự tin, khác hẳn đàm phán ở Đà Lạt. Về những điểm đàm phán thể hiện độc lập và thống nhất ba miền, Bollaert tỏ ý đe dọa, Nguyễn Văn Xuân chửi thẳng bằng tiếng Pháp, còn Bảo Đại nói những câu khinh thường. Ngày 5 tháng 6 ký xong, ngày 15 tháng 6 Thủ tướng Xuân qua Pháp. Từ đây bắt đầu đàm phán với Pháp, đến 25 tháng 4 năm 1949 mới xong.
Chính phủ Việt Minh phản đối dữ dội chính phủ Nguyễn Văn Xuân và gọi đây là chính phủ bù nhìn. Một vở kịch của Thế Lữ thời kỳ này chế diễu tướng Xuân rất buồn cười với việc “kéo mũi ra cho lõ như Tây”.
Đàm phán Pháp – Việt (Việt của Bảo Đại) đi đến hiệp ước Elysée. Pháp trao trả độc lập (pháp lý) và toàn vẹn lãnh thổ (tương đối) cho Việt Nam. Pháp vẫn nắm ngoại giao, quân đội, kinh tế và tiền tệ. Đồng thời tạo ra khu tự trị cao nguyên. Hiệp ước được quốc hội Pháp thông qua và ký tháng 3 năm 1949. Ba tháng sau Bảo Đại về Sài Gòn nhận chức quốc trưởng của một nhà nước mới toe: Quốc gia Việt Nam (State of Vietnam). Tất nhiên trên thực tế, chính quyền mới này không can thiệp vào được các vùng do chính phủ Việt Minh đang kiểm soát.
Cũng trong năm 1950, nhờ Mỹ Anh tài trợ và được De Lattre ủng hộ, quân đội của Quốc Gia Việt Nam bắt đầu được hình thành. Nguyễn Văn Hinh, một sĩ quan không quân Pháp và có quốc tịch Pháp làm Tổng tham mưu trưởng đầu tiên với hàm thiếu tướng. Năm 1955 tướng Hinh bất đồng với Ngô Đình Diệm, trở về Pháp, tham gia quân đội Pháp, về hưu với hàm đại tướng quân đội Pháp.
VIII. Hoa Kỳ bắt đầu quan tâm đến Đông Dương.
Giai đoạn này chính trị thế giới, do ảnh hưởng của Liên Xô và học thuyết của họ lúc đó là học thuyết (chủ nghĩa) Zhdanov (rất thô và đơn giản) đã chia thế giới theo một cách hết sức ngô nghê: chia thành hai phe. Phe Đế Quốc do Anh Mỹ đứng đầu, và phe Dân Chủ do Liên Xô đứng đầu. Để phát triển xã hội, học thuyết Zhdanov khuyến khích đấu tranh giai cấp không khoan nhượng. Tiếp đó cách mạng bạo lực của Mao thành công ở Trung Quốc, đuổi được Tưởng Giới Thạch ra Đảo. Trung Quốc và Liên Xô công nhận chính phủ Việt Minh (1949). Mỹ và Anh công nhận chính phủ của Bảo Đại (1950). Tính chính danh của hai chính phủ ở hai miền hình thành ở giai đoạn này và để lại di sản cho các giai đoạn kế tiếp. Đó cũng là lúc thế giới bước vào Chiến tranh lạnh.
Các học thuyết của Mỹ ở thời điểm này bắt đầu cho Đông Dương vào vòng ngắm. Theo Stanley Karnow, tháng 5 năm 1945, ngay sau khi Truman vào Nhà Trắng thế chỗ cho tổng thống Roosevelt qua đời, ngoại trưởng Edward Stettinius của Mỹ đã khẳng định với ngoại trưởng Pháp lúc đấy là George Bidault rằng Mỹ sẽ công nhận các đòi hỏi quyền lợi của Pháp ở Đông Dương.
Sáng kiến của Truman tại Quốc hội ngày 12 tháng 3 năm 1947 về việc hỗ trợ người các dân tộc tự do, sau được gọi là học thuyết Truman, làm căng thẳng thêm chiến tranh lạnh. Ngày 25 tháng 6 năm 1950, Bắc Hàn tấn công Nam Hàn và bốn ngày sau chiếm Seoul. Sáu tháng trước đó Mao thắng thế toàn diện ở Trung Quốc và cùng Liên Xô công nhận chính phủ Hồ Chí Minh. Bốn ngày sau khi chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, ngày 28 tháng 6, Truman ký lệnh tăng tốc hỗ trợ Pháp. Một ngày sau đó 8 chiếc máy bay vận tải C-47 của Mỹ bay tới Bắc Việt và tham gia “trái luật” vào chiến tranh Đông Dương, đây là những máy bay đầu tiên của CAT.
Phải tới ngày 26 tháng 7 năm 1950 tổng thống Truman ký luật hỗ trợ quân sự cho Pháp và được Quốc hội Hoa kỳ thông qua. Mỹ đã chi gần 3 tỷ dollar để viện trợ cho Pháp ở Đông Dương trong 4 năm sau đó. Các phái đoàn cố vấn quân sự, kinh tế của Mỹ bắt đầu đến Sài Gòn. Tiền và vũ khí Mỹ, chuyên gia Mỹ, được dùng để bắt đầu xây dựng Quân đội cho Quốc gia Viêt Nam ở phía nam và choquân đội Pháp đánh nhau với Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ở phía bắc. Các hoạt động của Edward Lansdale tốn kém lên tới hàng triệu dollar vẫn được tài trợ.
IX. Điện Biên, Geneva, và gia đình họ Ngô ở miền nam.
Từ năm 1950 đến năm 1954, khi Võ Nguyên Giáp vẫn kiên trì đánh Pháp ở rừng núi Bắc Bộ thì ở Nam Bộ quốc trưởng Bảo Đại một mặt xây dựng chính quyền của mình, vốn nhiều phe phái không đồng nhất, mặt khác kiên trì tiếp tục đàm phán với Pháp đòi hỏi độc lập thực sự của Việt Nam.
Bảo Đại là một ông vua, tức là như Dumas nói: vua là quý tộc của các quý tộc. Bảo Đại có các phẩm chất cao quý nhất của con người: thông minh, tinh tế, hiểu người, hiểu đời. Bên cạnh đó, Bảo Đại được đào tạo đầy đủ về khoa học chính trị ở Sciences Po bên Pháp. Điểm yếu của Bảo Đại, cũng là tính quý tộc: mê đánh bài, mê gái, mê săn bắn, mê ngao du. Bảo Đại hiểu chính trị và biết dùng chính trị gia. Nhưng bản thân Bảo Đại lại muốn ở trên và bên ngoài mọi đảng chính trị, lại lười việc nước, ham chơi, không muốn làm lãnh đạo đất nước. Làm quốc trưởng, Bảo Đại cũng ở Đà Lạt đi săn, mọi việc thả cho Thủ Tướng làm.
Đây là thời kỳ thú vị của Sài Gòn. Không khí chính trị mới mẻ, các lực lượng quân sự hùa về với Bảo Đại, kinh tế ngầm liên quan đến buôn thuốc phiện do mafia đảo Corse nắm. Nhóm người Corse này lại kết nối với lực lượng bảo vệ an ninh đô thành, là nhóm Bình Xuyên. Bình Xuyên lại làm cả bảo kê gái và song bài. Bảo Đại sống bằng tài trợ của Pháp và Bình Xuyên. Sài Gòn như một thành phố quốc tế, đầy rẫy bọn buôn lậu và điệp viên. Graham Greene qua Sài Gòn vừa làm báo, vừa làm điệp viên, vừa hút thuốc phiện. Phạm Xuân Ẩn, gốc gác là “người” của Phạm Ngọc Thạch, làm cho phòng nhì, kiểm soát bằng cách đọc lén thư từ của chính Greene. Ở ngoại ô, quân Việt Minh do Nguyễn Bình vẫn đánh Pháp. Lê Duẩn nắm Xứ Ủy, và theo KW Taylor, Lê Duẩn còn phải kiềm chế Nguyễn Bình. Một góc của Sài Gòn hồi đấy có thể thấy ở Sound of Silence.
Thủ tướng đầu tiên của Bảo Đại là Nguyễn Phan Long, thay cho Nguyễn Văn Xuân bởi Nguyễn Văn Xuân không nói được tiếng Việt. Nguyễn Văn Xuân làm phó thủ tướng cho đến khi chính phủ Nguyễn Phan Long hoàn thiện thì về Pháp. Nguyễn Phan Long là một người thuộc nhóm Lập Hiến, đòi Pháp trả độc lập hoàn toàn và tỏ ra thắm thiết với Mỹ. Ngay lập tức Pháp ép Phan Long nghỉ và thay bằng Trần Văn Hữu, một người nhà giàu quốc tịch Pháp (1950). Không ngờ Trần Văn Hữu ngày càng tỏ ra ái quốc, bỏ ra nhiều tháng đi Pháp (Pau) để tiếp tục tranh luận các điều khoản chưa rõ trong hiệp ước Élysée, đòi các quyền lợi kinh tế, quân sự, ngoại giao. Trần Văn Hữu chính là thủ tướng tuyên bố Hoàng Sa Trường Sa là của Việt Nam như đã nói ở trên. Cuối cùng, tới năm 1952, Trần Văn Hữu làm việc thẳng với Anh Mỹ, khiến Pháp cay quá phải thay bằng Nguyễn Văn Tâm, một công dân Pháp và theo phe ly khai Nam Kỳ ngày trước.
Nguyễn Văn Tâm làm đến cuối năm 1953 thì từ chức, và đầu năm 1954 Bảo Đại bổ nhiệm Bửu Lộc, một người họ hàng của mình vào chức thủ tướng. Lúc này Bảo Đại đang ở Pháp để trực tiếp đàm phán về độc lập hoàn toàn cho Việt Nam. Chiến tranh Pháp Việt đang đi đến hồi kết. Quân của Võ Nguyên Giáp bao vây Điện Biên Phủ. Ở vùng mà Việt Minh gọi là vùng tạm chiếm thì Đại Việt rất mạnh, đồng thời xuất hiện và trỗi dậy lực lượng của các linh mục Bùi Chu Phát Diệm. Ở Hà Nội, thị trưởng là Thẩm Hoàng Tín, một người nhà giàu gốc Hoa. Trong thời gian ông này làm thị trưởng (chấm dứt năm 1954) có sự kiện cầu Thê Húc bị sập (1952). Nguyễn Ngọc Diệm đã thiết kế và làm lại cây cầu này.
Cùng giai đoạn này Mỹ có các động thái tham gia sâu hơn ở Indochina. Theo cuốn CIA and the House of Ngo: Covert action in South Vietnam (1954-1963) của Thomas L. Ahern thì khi chiến tranh lạnh bắt đầu lạnh hơn, chiến thắng của Mao ở Trung quốc năm 1949 và chiến tranh Triều Tiên nổ ra vào tháng 6 năm 1950, Hoa Kỳ hỗ trợ vật lực diện rộng cho Pháp đánh Việt Minh. Năm 1950 cũng là năm quốc hội Pháp phê chuẩn việc xây dựng chính phủ Việt nam độc lập danh định (nominally independent) với quốc trưởng Bảo Đại. Đến cuối năm 1953, theo yêu cầu của Bộ trưởng ngoại giao John Foster Dulles, chính phủ Hoa Kỳ cam kết chi 400 triệu dollar cho Pháp ở Đông Dương. Hoa kỳ cũng nhận ra chính quyền mới ở miền nam, mà thủ tướng được bổ nhiệm là Ngô Đình Diệm không chỉ thiếu hệ thống và nhân lực hành chính để vận hành đất nước, mà còn thiếu cả các chính trị gia bản địa để thực thi quyền lực, cũng như không có quân đội. CIA, lúc này đã hình thành, và rất thành công ở Iran, Guatemala, Italy và Philippine bắt đầu đưa các ngôi sao của mình, trong đó có Lansdale đến Sài Gòn. CIA nhận ra họ không chỉ phải “establish a leader” mà còn phải “create a country”. Các hoạt động gây sức ép với Pháp để thành lập quân đội cho Việt Nam Cộng Hòa, hỗ trợ Ngô Đình Nhu phát triển đảng Cần Lao theo chiều dọc xuống “grass root” …đều bắt đầu từ giai đoạn Mỹ bắt đầu tham gia vào Đông Dương và dần thay thế vai trò của Pháp.
Trong thời gian này anh em nhà họ Ngô phân công nhau mỗi người một việc. Sau khi được công an Việt Minh phóng thích, Ngô Đình Diệm ở nhà thờ Hàng Bột thêm một thời gian khá dài. Edward Miller lấy tin của mật thám Pháp cho biết Diệm ở lại lâu để lôi kéo các nhân vật quan trọng trong chính phủ Việt Minh, đặc biệt là lôi kéo Nguyễn Bình. Năm 1950 nhận thấy chính trị nghiêng hẳn về Bảo Đại, Ngô Đình Diệm thoát ly khỏi quê hương cùng anh trai là Ngô Đình Thục. Điểm đầu tiên đến là Nhật và gặp hoàng thân Cường Để. Chuyến đi này thất bại, khi Diệm không tìm kiếm được gì từ nhóm Nhật thân Cường Để. Vả lại Cường Để qua đời sau đó vài tháng. Nhưng rất may cho Diệm, đi Nhật lại gặp nhà khoa học chính trị kiêm tình báo quân sự khu vực viễn đông của Hoa Kỳ tên là Wesley Fishel. Rời Nhật, Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Thục đi Mỹ, thất bại trong tìm kiếm hỗ trợ từ chính phủ Hoa Kỳ, lại bay tiếp qua Roma và Paris. Ở Paris chính Bảo Đại từ chối gặp Ngô Đình Diệm. Sau thất bại này, Ngô ĐìnhDiệm quay về Hoa Kỳ và ở lại khá lâu. Edward Miller dành một chương để nói về quãng tời gian Ngô Đình Diệm ở Mỹ. Trong thời gian này, Ngô Đình Diệm thông qua các kênh công giáo La Mã và tư vấn của Wesley Fishel đã quen thân được thẩm phán Tối cao Pháp viện là William O. Douglas. Douglas tổ chức ăn tối để Ngô Đình Diệm gặp gỡ các nhân vật chính trị trẻ, trong đó có thượng nghị sỹ Mike Mansfield và thượng nghị sỹ John F Kennedy (sau trở thành tổng thống Hoa Kỳ).
Cùng lúc đó ở trong nước, Ngô Đình Nhu, một người lạnh lẽo và đặc biệt thông minh, đã bí mật thành lập Cần Lao Cách Mạng Đảng với chủ thuyết Nhân Vị ở Đà Lạt, thông qua các hội thảo nhỏ với lượng khách tham dự rất chọn lọc (1949). Trong cuốn sách mới xuất bản cuối xuân 2013, cuốn Missalliance: Ngo Dinh Diem, The United States and the Fate of Sound Vietnam, Edward Miller than rằng có quá ít thông tin về Cần Lao, do hoạt động của họ quá kín đáo. Ngay cả các tài liệu của mật thám Pháp và CIA giải mật gần đây cũng không tiết lộ được nhiều. Chỉ biết rằng Ngô Đình Nhu đã tham khảo cách Tưởng Kinh Quốc áp dụng mô hình quân đội xô viết để xây dựng quân đội Đài loan với quân ủy nằm trong quân đội; qua đó Cần Lao bén rễ được vào chính phủ của Bảo Đại, vào quân đội của Quốc gia Việt Nam đang manh nha thành lập, vào các lực lượng công giáo. Mặt khác, Ngô Đình Nhu xây dựng tờ báo Tinh Thần và đứng sau ngầm chỉ huy để tuyên truyền cho đường lối “cách mạng chính trị kinh tế”. Ngô Đình Nhu cũng xây dựng các quan hệ vững chắc và dài lâu với giới lao động thông qua lãnh đạo nghiệp đoàn (Trần Quốc Bửu) và báo của họ (tờ Xã Hội), nắm được giới trí thức elite Bắc Kỳ chạy vào Nam Kỳ (Trần Chánh Thành). Và với quân đội thì thậm chí ngay khi Trường Võ bị Đà Lạt (Học viện quân sự Đà Lạt) mới được thành lập, Nhu đã đến phát biểu, qua đó gây ảnh hưởng đến các sỹ quan trẻ sau này. Theo Edward Miller, đến cuối năm 1953, mặc dù hoạt động ngầm nhưng mạng lưới chính trị của Ngô Đình Nhu đã trải khắp Indochina. Từ đó Ngô Đình Nhu lôi kéo được các thủ lĩnh các phe vũ trang chống cộng, ủng hộ Ngô Đình Nhu và rời xa Bảo Đại, lúc này đang ở Pháp.
Chính sự lớn mạnh về lực lượng chính trị của anh em họ Ngô ở trong nước, đã làm Bảo Đại phải cân nhắc về nhân vật vốn chống mình rất dữ dội là Ngô Đình Diệm.
Vào phút cuối cùng, Việt Minh thắng Điện Biên, còn ở Pháp Bảo Đại đạt được thỏa ước tối đa với Pháp Ngày 4 tháng 6 năm 1954, người Pháp, vốn cứng đầu, lèm bèm và ti tiện, đến lúc này mới trả độc lập toàn bộ cho Quốc gia Việt Nam của Bảo Đại. Bảo Đại, với quyết định vừa lười nhác vừa dũng cảm, vừa sáng suốt, bổ nhiệm Ngô Đình Diệm làm thủ tướng. Bảo Đại biết trước một người tham vọng như Ngô Đình Diệm sẽ làm lãnh đạo quốc gia tốt hơn một ông vua ham chơi, và tất nhiên việc Diệm sẽ phế quốc trưởng Bảo Đại là một điều chắc chắn. Từ đó không bao giờ Bảo Đại quay về trong nước.
Sau khi được bổ nhiệm, Ngô Đình Diệm bay về Sài Gòn và lập chính phủ, ra mắt quốc dân ngày 7 tháng 7 năm 1954. Phần tiếp theo xem tại “Luận văn của ông Nhu“.
Hai tuần sau hiệp định Geneva được ký kết (ngày 21 tháng 7), chia đất nước thành hai nửa.
X. Những gạch nối.
Chỉ trong hơn 50 năm mà Việt Nam thay đổi quá nhiều.
Từ Đại Nam của nhà Nguyễn sau khi bị Pháp chiếm mà trở thành Annam, Đông Dương thuộc Pháp, rồi thành Việt Nam. Việc tiếp xúc với phương Tây đã mang đến cho Việt Nam nhiều cái tên xa lạ và khó hiểu: Cochinchina để chỉ Đàng Trong, Tonkin để chỉ Đàng Ngoài, và Indochina để chỉ chung ba nước Đông Dương. Chữ Indochina ấy, sau này làm khó cho cán bộ của Cường Để cử qua Anh và Đức để vận động, bởi người Anh và Đức, rồi sau là Mỹ, rất khó hiểu với địa danh mơ hồ nửa Ấn Độ (Indo) nửa Trung Hoa (China) này. Nó cũng khó hiểu chẳng kém việc người Việt hiểu tại sao Đàng Trong lại là Cochinchina.
Từ một đất nước chỉ có hai đàng: Đàng Trong và Đàng Ngoài, rồi có thêm kinh đô Huế ở giữa, đến thời Pháp thuộc trở thành ba miền Nam Kỳ, Bắc Kỳ, Trung Kỳ. Đến thời Nhật bảo hộ Trần Trọng Kim mà trở thành Nam Bộ, Bắc Bộ, Trung Bộ.
Việt Minh lấy chính quyền từ tay Trần Trọng Kim, nên xứ ủy phía nam của ĐCS Đông Dương là xứ ủy nam kỳ, khởi nghĩa đánh Pháp của họ năm 1940 là Nam Kỳ Khởi Nghĩa, nhưng sau năm 1945 họ lại có Nam Bộ Kháng Chiến, lại có ảnh lịch sử cướp chính quyền ở Bắc Bộ Phủ, rồi lại có cả sự kiện Vịnh Bắc Bộ. Ngày nay các bản tin thời tiết trên VTV vẫn dùng các từ này.
Còn chính phủ Nguyễn Văn Xuân do Pháp bảo hộ lại gọi Nam Phần, Bắc Phần, Trung Phần. Nên sau này VNCH tiếp nối chính phủ Nguyễn Văn Xuân dùng các từ như vậy, nên ta có các danh từ kiểu Cao nguyên Trung phần.
Việt Nam từ một nước không có “giờ”, cho đến khi Pháp ở Paris theo hiệp ước quốc tế múi giờ (1911) mà Nam Kì lần đầu tiên theo giờ chuẩn thế giới (GMT+7), nhưng đến 1942 thì Hà Nội, Sài Gòn, Hải Phòng, Phnom Penh, Vienchan …mới chính thức (bằng văn bản luật) theo giờ Đông Dương thuộc Pháp (GMT+8). Đến lúc Nhật đảo chính, Đông Dương theo GMT+9 của Nhật. Sau khi Việt Minh cướp chính quyền, vùng Việt Minh kiểm soát là GMT+7 còn vùng Pháp tái chiếm là GMT+8. Sài Gòn trước 75 là GMT+8, Hải Phòng trước 1955 là GMT+8. Hà nội trước 1954 là GMT+8 và sau 1954 là GMT+7.
Không phải cái gì của lịch sử cũng tồn tại vượt qua thời gian đến hiện tại hôm nay. Nhưng cái gì tồn tại được thì hẳn là quan trọng, bởi đó là cái quá khứ làm nên hiện tại. Và một phần nào đó của hiện tại sẽ trở thành lịch sử khi góp phần tạo dựng tương lai.
***
1. Con đường của rồng và Chuyện học sách.
2. Trong vỏ hạt dẻ phần 1 và Trong vỏ hạt dẻ phần 2.
3. Luận văn của ông Nhu và Chuyện thừa thiếu.
7. Viện Dân Biểu và Liên Bang
8. Khác lối
và
– người Pháp đã dựng được Quốc gia Đàng Trong (State of Cochinchina) với Nguyễn Văn Thinh làm president (thủ tướng).
– Việc này kết liễu luôn nhà nước Cộng Hòa Đàng Trong. Nguyễn Văn Thinh tự sát.
– Pháp đổi Republic of Cochinchina thành Provisional Central Government of Vietnam (Cộng Hòa Tự Trị Nam Kỳ) với tướng Nguyễn Văn Xuân làm thủ tướng.
Cochinchina lúc này nghĩa là Nam Kỳ, chứ không còn nghĩa Đàng Trong nữa (cùng với Annam là Trung Kỳ và Tonkin là Bắc Kỳ tạo nên Việt Nam), còn State/Republic of Cochinchina là Nam Kỳ quốc, Cộng Hòa Tự Trị Nam Kỳ. Provisional Central Government of Vietnam phải là Chính phủ Trung ương lâm thời Việt Nam.
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a_t%E1%BB%B1_tr%E1%BB%8B_Nam_K%E1%BB%B3#T.C3.AAn_g.E1.BB.8Di
Bài hay đến phát cuồng khi đọc, cuồng vì ngợp trong một thùng tono thông tin
“Trong thời gian này, Ngô Đình Diệm thông qua các kênh công giáo La Mã và tư vấn của Fisher đã quen thân được thẩm phán Tối cao Pháp viện là William O. Douglas. ”
Fisher của đoạn này có phải là Wesley Fishel mà bác 5 xu nhắc tới ở đoạn trước không.
Đúng rồi, viết sai tên.
Anh Xu có định tổng hợp lại mấy bài viết cùng chủ đề này rồi ra sách ko? Biết là bài anh viết blog nhưng anh quăng cho cái list sách tham khảo cho tiện tra cứu cái anh nhỉ :D.
Mấy đoạn này mâu thuẫn nhau:
“Nam bộ chỉ sáp nhập trở lại với Việt Nam được sau đó mấy năm nhờ công đàm phán của Bảo Đại (Hiệp ước Élysée năm 1949).”
“khi Hồ Chí Minh khi đi Pháp đã có những thỏa thuận (với Marius Moutet, bộ trưởng bộ hải ngoại) có lợi cho chính phủ Việt Minh và hai bên ngừng bắn. Việc này kết liễu luôn nhà nước Cộng Hòa Nam Kỳ. Nguyễn Văn Thinh tự sát.”
“Năm 1950, theo hiệp ước Élysée mà chính phủ Pháp ký với Bảo Đại, Nam Bộ (Cochinchina) quay trở về với đất mẹ Việt Nam. Lần đầu tiên ba miền thống nhất.”
Bài hay, nhiều thông tin về các diễn biến ở tầng lớp tạm gọi là “chính trị gia” với sự hẫu thuẫn của các thế lực bên ngoài đủ loại, tuy nhiên, không đề cập gì đến xã hội bình dân…
Phải chăng, dân Việt ở 3 miền không có vai trò gì, họ chỉ là lớp dưới, là nền để mặc cho các thế lực ngoại bang tự do tự tung tự tác thông qua tay chân là các “chính trị gia”?
Nhân Tuấn Trương:
Một số điều liên quan Hội nghị San Francisco cần nhắc lại :
Vào thời điểm Hội nghị San Francisco 1951 có đến hai nhà nước TQ : 1/ Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) do Tưởng Giới Thạch lãnh đạo. Nhà nước này được LHQ nhìn nhận là đại diện duy nhứt của nước TQ. 2/ Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa (lục địa) do Mao Trạch Đông lãnh đạo. Nhà nước này không được sự nhìn nhận của LHQ.
Hội nghị San Francisco không có bên nào được tham dự.
Đối với lục địa, nhà nước này thành lập năm 1949, 4 năm sau khi Nhật đầu hàng. Không tuyên bố chiến tranh thì làm sao có lý do để ký « hiệp ước hòa bình » với Nhật ? Dầu vậy, Chu Ân Lai có tuyên bố bên lề Hội nghị là không nhìn nhận giá trị của hội nghị này.
Nhật lựa chọn nhà nước Trung Hoa Dân Quốc để ký hiệp ước hòa bình (năm 1952). Nội dung hòa ước, điều 1 xác định chấm dứt tình trạng chiến tranh giữa hai nước. Về vấn đề lãnh thổ, điều 2, Nhật tuyên bố từ bỏ chủ quyền ở Đài Loan, Bành Hồ cùng hai quần đảo HS và TS, đúng y như nội dung điều 2 của Hòa ước San Francisco.
Phía TQ vịn vào điều này để cho rằng Hòa ước San Francisco giao HS và TS lại cho TQ.
Vấn đề bàn luận về hội nghị San Francisco ở đây là « tuyên bố của TT Trần Văn Hữu về chủ quyền của VN tại HS và TS » có giá trị pháp lý hay không ? Tôi thấy không cần thiết phải dẫn vào đây các tài liệu không quan hệ đến điều này.
Tuyên bố này được nhà nước CHXHCNVN hiện nay sử dụng như là một tài liệu chính thức nhằm củng cố chủ quyền của VN ở HS và TS. Tôi cũng cho rằng đây là một tài liệu pháp lý quan trọng để chứng minh chủ quyền của VN tại HS và TS.
Dĩ nhiên mọi người có thể hoài nghi về tuyên bố này và tìm cách chứng minh rằng nó không có giá trị. Việc Le Na Morgoun cho rằng Quốc gia VN (mà ông Trần Văn Hữu làm đại diện tại hội nghị) không phải là một quốc gia độc lập (vào thời điểm đó) là một cách chứng minh hay ho.
Riêng tôi thì cho rằng, vào thời điểm tham dự hội nghị, Quốc Gia VN đã là một quốc gia độc lập, có chủ quyền (theo nội dung kết ước Elysée 1949). Vì vậy Hoa Kỳ mới mời VN tham gia hội nghị. VN ký hòa ước với Nhật, được Nhật bồi thường, đã đủ chứng minh tư cách pháp nhân của Quốc gia VN.
Nhân Tuấn Trương:
Lá thư (gởi TTK LHQ) của ông Lê Hoài Trung, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của VN tại LHQ, có một điểm mà theo tôi cần sửa lại. Lá thư viết :
« Hội nghị hòa bình San Francisco từ ngày 4 đến 8 tháng 9 năm 1951 có 51 nước tham dự; Việt Nam tham gia hội nghị với tư cách là thành viên của Liên hiệp Pháp. »
Thực ra VN tham dự Hội nghị San Francisco không phải với tư cách « thành viên của Liên hiệp Pháp », mà với tư cách một quốc gia độc lập (do Hoa Kỳ mời), « có tuyên bố chiến tranh với Nhật ».
Vào thời điểm đầu hàng, 14-8-1945, Nhật đã có tuyên chiến với 46 nước, trong số đó không có Việt Nam. Nguyên nhân trong khoản thời gian đó VN không tự chủ về ngoại giao (bị Nhật chiếm đóng).
Từ thời điểm Nhật đầu hàng đến ngày mở Hội nghị San Francisco (ngày 4 tháng 9 năm 1951), Hội nghị đón nhận thêm 9 nước khác « có tuyên bố chiến tranh » với Nhật nhưng không kịp lên tiếng.
Sự việc chậm trễ (tham gia Hội nghị) của các nước này là do dưới quyền bảo hộ của một nước khác (không tự chủ về ngoại giao). Một trong 9 nước đó là Việt Nam.
Nhật phải ký hòa ước với tất cả các nước mà họ đã gây chiến (hay tuyên bố chiến tranh).
Việt Nam là một bên ký kết với Nhật hiệp ước hòa bình San Francisco 1951. Nhật đã phải bồi thường chiến tranh cho VN, bằng các hình thức viện trợ và công trình xây dựng (như đập Đa Nhim). Điều này khẳng định tư cách pháp nhân của quốc gia Việt Nam (độc lập, có chủ quyền) trong thời điểm đó, trước sân khấu quốc tế.
Một điểm khác cũng cần nói ở đây, là tôi cảm thấy hãnh diện vì ý kiến của mình được sử dụng trong lá thư này (như là các lập luận cốt lõi).
Có hai ý kiến mà tôi đã đưa ra (nhằm phản biện lại hành vi của TQ trong việc đặt giàn khoan 981) :
1/ Ý kiến thứ nhất là lập trường của VN phải dựa lên hai Hiệp ước quốc tế : Hiệp định Genève 1954 và Hiệp định Paris 1973. Theo đó các nước bảo trợ (và cộng đồng quốc tế) tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ, nền độc lập của VN.
2/ Ý kiến thứ hai, lấy từ đề nghị của tôi : VN đệ đơn đề nghị Tòa Công lý Quốc tế (CIJ) tuyên bố một số điều :
– Việc chiếm hữu một lãnh thổ bằng phương pháp vũ lực là vi phạm các nguyên tắc cơ bản của LHQ.
– Việc chiếm hữu các đảo ở Trường Sa (lập danh sách chi tiết các đảo) năm 1988 bằng vũ lực không đem lại cho Trung Quốc danh nghĩa chủ quyền.
– Việc chiếm hữu quần đảo Hoàng Sa tháng giêng năm 1974 bằng vũ lực không đem lại cho Trung Quốc danh nghĩa chủ quyền.
Tuy nhiên, phần 3 của lá thư (VN chưa bao giờ công nhận chủ quyền của TQ) chỉ có thể thuyết phục nếu lập luận này đồng bộ với phần 1. Tức phù hợp với nội dung hai hiệp định Genève 1954 và Paris 1973 : VN là một quốc gia duy nhất, toàn vẹn lãnh thổ, độc lập có chủ quyền.
Le Na Morgoun
Diễn biến trước Hiệp ước San Francisco có:
– Hội nghị Potsdam (Đức) từ ngày 17/7 đến ngày 02/8/1945 gồm đại diện 3 nước: Liên Xô, Mỹ, Anh. Ngày 26/7/1945, W. Churchil, H. Truman và Tưởng Giới Thạch đưa ra Tuyên bố Potsdam vạch ra những điều khoản đầu hàng đối với Nhật Bản.
– Theo các điều khoản 26/7/1945, Tướng Hà Ứng Khâm của Trung Hoa Dân quốc đã thừa lệnh Tướng Mac Arthur tiếp nhận sự đầu hàng của Okamura Yasutsugu Tổng tư lệnh quân đội Nhật Bản tại chiến trường Trung Quốc, bao gồm đại diện phe Đồng Minh tiếp quản quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Đây chỉ là Đài Loan đại diện cho Đồng Minh chứ không phải Đài Loan được chia từ Đồng Minh.
– Ngày 29/6/1950, Pháp chính thức công nhận Quốc gia Việt Nam là thành viên của khối Liên hiệp Pháp.
– Ngày 15/8/1951, Ngoại trưởng Chu Ân Lai lên tiếng về bản dự thảo Hiệp ước Hòa bình với Nhật Bản do Mỹ – Anh soạn thảo trên tinh thần Hội nghị Potsdam.
– Từ ngày 05 đến ngày 08/9/1951, đại diện của 51 chính thể họp tại San Francisco, và 48 nước ký kết Hòa ước giữa Đồng minh với Nhật, chính thức chấm dứt thế chiến II (có hiệu lực từ ngày 28/4/1952). Do bất đồng nên 3 nước: Liên Xô, Tiệp Khắc, Ba Lan không tham gia ký kết Hiệp ước này.
– Tới thời điểm Hiệp ước San Francisco có hiệu lực ngày 28/4/1952, Trung Hoa Dân quốc lại ký riêng rẽ một Hiệp ước Hòa bình với Nhật Bản. Nhật Bản và Trung Hoa Dân quốc chỉ nhắc lại việc khước từ chứ không nói là Nhật Bản trao hai quần đảo này cho Trung Hoa Dân quốc.
– Ngày 05/5/1952 TQ có phản ứng về Hiệp ước riêng rẽ trên nhưng không nói gì đến quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa mặc dù hai quần đảo này đã được đề cập: “Điều 2 – Hai bên nhìn nhận là theo Điều 2 Hòa ước với Nhật Bản ký ngày 8/9/1951 tại San Francisco ở Hoa Kỳ, Nhật Bản đã khước từ mọi quyền, danh nghĩa hay đòi hỏi liên quan tới Đài Loan (Formosa) và Bành Hồ (The Pescadores), cũng như quần đảo Trường Sa (Spratly Islands) và Hoàng Sa (Paracel Islands)”
– Ngày 04/6/1954, Pháp mới ký Hiệp định với Quốc gia Việt Nam công nhận Quốc gia Việt Nam hoàn toàn độc lập.
(Tham khảo: Treaties and Agreements between The Republic of China and other powers, Sino-American Publishing Service, Washington D.C.
http://www.jpri.org/publications/workingpapers/wp78.html
Click to access IS425.pdf
http://www.taiwandocuments.org/sanfrancisco01.htm )
JPRI Working Paper No. 78
http://www.jpri.org
Le Na Morgoun
Phải hiểu quy chế Liên Hiệp Pháp, mới biết vì sao Hoa Kỳ mời VN – pháp nhân VN khi đó là như vậy. Khi ông TT Trần Văn Hữu tuyên bố về chủ quyền của VN tại HS và TS hẳn là có sự đồng thuận nào đó từ khối này. Trong biên bản không có bên nào (50 chính thể) phản đối kể cả Liên Xô mà vào lúc đầu hội nghị đã đòi quyền lợi hộ TQ. Kết ước Elysée chỉ là một giao kèo bước đầu và sau đó được thực thi dần trong một khoảng thời gian như ta đã thấy, bởi vậy, 1 năm sau kết ước 29/6/1950, Pháp chính thức công nhận Quốc gia Việt Nam là thành viên của khối Liên hiệp Pháp rồi tới 04/6/1954, Pháp mới ký Hiệp định công nhận Quốc gia Việt Nam hoàn toàn độc lập.
Le Na Morgoun
Elysée 1949 tuy ký nhưng thực tế không như vậy vì thực lực không đủ, Chính phủ Bảo hộ vẫn đại diện làm mọi việc, kể cả việc “trông” mấy quần đảo.Khi đó, Tổ chức Khí tượng thế giới (OMM) đã chấp nhận đơn đăng ký danh sách các trạm khí tượng do Pháp xây dựng tại Hoàng Sa, Trường Sa vào danh sách các trạm khí tượng thế giới: trạm Phú Lâm số hiệu 48859, trạm Hoàng Sa số hiệu 48860, trạm Ba Bình số hiệu 48419.
– Tháng 6/1949, Việt Nam chính thức thống nhất dưới sự quản lý của Quốc Gia Việt Nam, Pháp chuyển giao chức năng hành chính cho Quốc Gia Việt Nam. Lúc này Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một chính phủ khánh chiến, đại bản doanh ở An toàn khu Việt Bắc.
– Ngày 14/10/1950, Tổng trấn Trung kỳ là Phan Văn Giáo đã chủ trì việc bàn giao quyền quản lý quần đảo Hoàng Sa từ Chính phủ Pháp sang Chính phủ Quốc gia Việt Nam, quân đội Pháp vẫn đóng ở đó cho tới 1956. [Phần này, vì một số mục đích chính trị thiển cận đã không có trong sách GK lịch sử].
5 người nhân viên khí tượng ra Hoàng Sa đầu tiên là do ông Xiển đào tạo ở Phủ Liễn (1937).
Về Cochinchine:
Người Nhật Bản vào buôn bán ở Kẻ Chợ, gọi Kẻ Chợ trại đi thành Coci. Hoặc 1 version khác, là người Nhật Bản gọi Giao Chỉ là Coci, sự khác biệt giữa 2 versions này không quan trọng, đại khái là người Nhật Bản gọi nước Việt là Coci.
Người Bồ Đào Nha thông qua người Nhật Bản, nhưng để phân biệt với tỉnh Cocin của họ ở bên Đông Ấn (gần thành Goa) nên ghép thêm từ China, ý là Cocin ở phía Trung Quốc chứ không phải Cocin bên Ấn Độ, thành Cocinchina. Lúc này Cocinchina là dùng để chỉ phần lãnh thổ của nhà Lê, tương ứng với “An Nam” theo quan niệm của Tàu, thủ phủ là thành Đông Kinh, Tonquin / Tonkin. Những danh xưng như “Đại Việt” hay “Đại Cồ Việt” hay “Đại Nam”, và “Thăng Long”…, thực sự không có bất kỳ 1 tiếng vọng dù nhỏ nhoi nào trong các mối quan hệ quốc tế.
Đến thời Trịnh – Nguyễn phân tranh, phần đất cũ của vương quốc do nhà Trịnh làm chủ được gọi theo tên thủ phủ là Tonkin, thành xứ Tonkin, nhưng tên tiếng Việt thì lại có các phiên bản Bắc Hà, Bắc Bộ, Bắc Kỳ hay “xứ Đàng Ngoài”. Tên Cocinchina, lúc này đã thành Cochinchine theo lối Pháp, được dùng để chỉ phần đất mới do nhà Nguyễn làm chủ, tức là rẻo đất miền Trung bây giờ (các vương quốc Champa và Khmer vẫn còn), các phiên bản tiếng Việt là “xứ Đàng Trong” hay Nam Hà. Bắc Hà hay Nam Hà có thể hiểu là lấy sông Gianh là ranh giới, các danh từ tương ứng với Bắc Bộ và Bắc Kỳ là Nam Bộ và Nam Kỳ không được sử dụng trong trường hợp này. Dường như các mối quan hệ quốc tế lúc này ít quan tâm tới “Đàng Ngoài” vì loạn lạc, nghèo đói và khuất sâu trong vịnh Bắc Bộ, mà chỉ quan tâm tới “Đàng Trong”, đang phồn thịnh và cởi mở, lại thuận tiện đường hàng hải từ Malacca đi Macao. Chính vì vậy mà cái tên Cocinchina / Cochinchina do người phương Tây sử dụng đã không gắn với miền đất cũ mà lại di chuyển đi xuống miền đất mới, theo sự quan tâm của họ.
Nhà Nguyễn mở rộng lãnh thổ tới tận xứ Thủy Chân Lạp, miền đất mới này được Lễ thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh đặt tên là Gia Định, theo nghĩa là có thêm được (“gia”) 1 miền đất hứa (“định”). Pháp ban đầu cho quân đánh Đà Nẵng nhưng sau thấy lấy Gia Định hay hơn nên đổi sang đánh chiếm Gia Định (việc này hoàn toàn theo chủ trương của phái quân sự, đại diện là đô đốc Charles Rigault de Genouilly, mà không theo ý kiến của các nhà truyền giáo, như giám mục Ollivier [lưu ý là 2 chữ “l”] Pellerin chẳng hạn).
Sau Hòa ước Nhâm Tuất 1862 (Traité de Saigon), cái tên Cochinchine chính thức được gắn với miền đất Nam Bộ, hay Nam Kỳ. Đất cũ ngàn năm vẫn là Bắc Bộ, hay Bắc Kỳ, Tonkin, còn miền đất từng được coi là “mới” 2 thế kỷ trước, “xứ Đàng Trong” hay Nam Hà hay Cocinchina, vì không còn “mới” nữa nên bị mất tên, lại nằm ở giữa miền Bắc và miền Nam nên trở thành miền Trung, Trung Bộ hay Trung Kỳ, và vì là nơi về danh nghĩa vẫn cho triều đình An Nam quản lý nên tên quốc tế là Annam, hoặc giản tiện hơn là Anam, bớt đi được 1 chữ “n”.
(Chính phủ Trần Trọng Kim trong phiên họp đầu tiên sau khi thành lập đã đổi “Kỳ” thành “Bộ”: Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ [mặc dù Nam Bộ vẫn còn đang thuộc Pháp]).